Tổng số lượt xem trang

Hiển thị các bài đăng có nhãn kiểm soát quyền lực. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn kiểm soát quyền lực. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 17 tháng 8, 2016

Quản trị công ty và quản trị nhà nước


Mặc dù tiêu đề của đoạn ghi chú là “Quản trị công ty và quản trị nhà nước”, tuy nhiên nội dung đoạn ghi chú này có lẽ không liên quan nhiều đến vấn đề quản trị công ty bởi phạm vi ở đây không đủ để đi sâu hơn và xin hẹn ở một thời điểm khác.
Những suy nghĩ về chủ đề này cũng xuất hiện từ lâu, nhưng vẫn không có nhiều động lực để ghi lại một cách cụ thể. Nhân những sự việc xảy ra với những người xung quanh mình thời gian gần đây, vì vậy mà có thêm động lực để nói ra đôi lời suy nghĩ của cá nhân dựa trên một số thông tin lượm lặt được về chủ đề này. Từ câu chuyện đi tiễn biệt 2 người bạn đồng môn lên đường thực hiện “Giấc mơ Mỹ” của mình để tiếp tục bước lên những nấc thang tri thức mới; đến chuyện một người thầy luôn tâm huyết với sự phát triển của đất nước đã phải thốt lên từ “quá chán nản” và không có cơ may nào cho Việt Nam trong ít nhất 5-10 năm tới, rồi chuyện anh bạn đồng nghiệp cũ đặt câu hỏi rằng “Người làm ra luật (hay quy định, quy tắc) có bắt buộc phải tuân theo luật (quy định, quy tắc) đó không?”, và chuyện lâu lâu lại có những đề nghị góp ý xây dựng, sửa đổi luật này, luật nọ từ các cơ quan thuộc khối hành pháp, vân vân và vân vân…
Thời còn đi học, khi được nghe PGS. TS. Phạm Duy Nghĩa so sánh giữa quản trị nhà nước (state governance) và quản trị công ty (corporate governance) (chú thích thêm governance ở đây được hiểu theo nghĩa là kiểm soát và quản trị), theo đó để quản trị một nhà nước tốt, đưa đất nước phát triển thịnh vượng thì phải coi quản trị nhà nước tương tự như quản trị một công ty, bởi ở đó cũng tồn tại vấn đề uỷ quyền – thừa hành, cụ thể là giữa chủ sở hữu (toàn thể công dân) và người quản lý, điều hành (bộ máy quản lý nhà nước). Có lẽ vì quản trị công ty là một khái niệm gần gũi, dễ hiểu hơn đối với các học viên nói riêng và phần lớn mọi người nói chung. Nói như vậy để mọi người dễ hình dung hơn về vấn đề kiểm soát và quản trị một quốc gia. Sau khi dành thời gian tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này thì thấy rằng, khái niệm quản trị công ty chỉ xuất hiện gần đây (từ thập niên 70-80 của thế kỷ 20), trong khi khái niệm về quản trị nhà nước đã xuất hiện trong thế giới loài người từ trước Công nguyên, và có thể nói những triết gia Hy Lạp lỗi lạc như Plato, Aristoteles đã đặt nền móng cơ sở cho tư tưởng về quản trị nhà nước. Đến thời kỳ khai sáng, các nhà tư tưởng về lý luận chính trị như John Lock (1632-1704), C.L. Montesquieu (1689-1775), J.J. Rousseau (1712-1778) và Alexis de Tocqueville (1805-1859)... đã phát triển và hoàn thiện khái niệm này một cách toàn diện. Đến nay, lý thuyết này vẫn còn được áp dụng ở hầu hết các quốc gia tiên tiến trên thế giới. Như vậy, có thể nói ngược lại là: phải coi quản trị một công ty, một tổ chức bất kỳ như quản trị một quốc gia.
Nội dung cốt lõi của lý thuyết kiểm soát và quản trị là phải kiểm soát quyền lực. Điều này, xuất phát từ bản chất tự nhiên của quyền lực, vì quyền lực luôn có xu hướng tự mở rộng, tự tăng cường vai trò của mình, ở đâu có quyền lực là có khả năng xuất hiện xu thế lạm quyền và chuyên quyền, cho dù quyền lực ấy thuộc về ai, chủ thể nào, hay nhóm người nào. Hay như nhà sử học, chính trị học Lord Acton từng nói: "Quyền lực làm con người ta tha hóa, quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến tha hóa tuyệt đối". Vì vậy, để ngăn ngừa các hành vi lạm quyền của các chủ thể nắm giữ quyền lực, thì phải cấu trúc hệ thống nhằm giới hạn quyền lực, đảm bảo mang lại lợi ích chung cho toàn bộ các chủ thể trong hệ thống, tổ chức hay một quốc gia. Cách tốt nhất để chống lạm quyền là giới hạn quyền lực bằng các công cụ pháp lý, và vì vậy không phải là tập trung quyền lực, mà là phân chia quyền lực. Muốn hạn chế quyền lực thì trước hết phải phân quyền, và sau đó phải làm cho các nhánh quyền lực đã được phân chia chỉ được phép hoạt động trong phạm vi quy định của pháp luật.
Quyền lực được phân chia thành các nhánh khác nhau, do các cơ quan khác nhau nắm giữ, để không một cá nhân nào, nhóm người nào hay tổ chức nào nắm được trọn vẹn quyền lực. Hoạt động của các cơ quan quyền lực cần có sự chuyên môn hóa, mỗi cơ quan chỉ hoạt động nhằm thực hiện chức năng riêng của mình, không làm ảnh hưởng tới hoạt động của các cơ quan khác.
Quyền lực giữa các cơ quan phải cân bằng, không có loại quyền lực nào vượt trội hơn. Các cơ quan quyền lực giám sát, kiềm chế và đối trọng lẫn nhau (Checks and Balances), để không có một cơ quan nào có khả năng lạm quyền. Với cấu trúc quyền lực này, sẽ đảm bảo tính trách nhiệm của các cơ quan quyền lực, được gọi là kiểm tra, giám sát bên trong. Cấu trúc này sẽ tạo ra một cơ chế mặc nhiên ai nắm và được phân công sử dụng quyền lực cũng phải bị kiểm tra, theo nguyên tắc phòng ngừa từ trong hệ thống. Còn cơ chế kiểm tra, giám sát được tiến hành từ bên ngoài thường chỉ được tiến hành một khi đã có hậu quả xảy ra.
Nhiều quan điểm cho rằng, để một tổ chức hay rộng hơn là một quốc gia phát triển thì cần có một “minh quân” dẫn dắt. Tuy nhiên, với lý thuyết về kiểm soát quyền lực này sẽ giúp phản biện lại quan điểm trên. Bởi dù cho đất nước có được một “minh quân” dẫn dắt mà trong cấu trúc của hệ thống không có sự giới hạn quyền lực, cũng như cân bằng đối trọng giữa các cơ quan nắm quyền lực thì cũng rất dễ dẫn tới tình trạng “minh quân” sẽ lạm quyền, nhằm mang lại lợi ích cho nhóm người nào đó mà không nhằm mục tiêu đưa hệ thống tiến về phía trước.
Theo học thuyết phân quyền thì về cơ bản quyền lực tối cao nhà nước được phân thành ba quyền là: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các quyền này được thực hiện độc lập với nhau, kiểm soát lẫn nhau và kiềm chế lẫn nhau.
Hiến pháp Việt Nam năm 2013 cũng quy định: "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, tư pháp, hành pháp”.
Một số quốc gia thì quyền lực nhà nước có khi được chia thành 4, 5 hoặc 6… bộ phận tuỳ hoàn cảnh ra đời của bản hiến pháp của mỗi quốc gia.
Nhưng dù phân chia thế nào thì ở các quốc gia phát triển luôn đảm bảo quyền lực giới hạn của mỗi cơ quan, độc lập, kiểm tra, giám sát, đối trọng giữa các cơ quan (nguyên lý Checks and Balances).
Qua thời gian, dù cho vẫn còn tồn tại những quan điểm khác nhau giữa các nhà tư tưởng lỗi lạc về chủ đề này, hay những biến thể khi đi vào áp dụng thực tế ở các quốc gia hiện nay, nhưng về cơ bản đều hướng đến xây dựng một nền thể chế đảm bảo quyền tự do của các công dân, chống lại chế độ chuyên chế, độc đoán, độc tài, hay quyền lực luôn được kiểm soát.
Về khoa học quản trị thì giữa quản trị nhà nước và quản trị một công ty có rất nhiều điểm tương đồng. Từ "hiến pháp" so với "điều lệ công ty", từ "công dân/đại diện của công dân là các đại biểu quốc hội" so với "cổ đông", từ "bộ máy hành pháp" so với "bộ máy quản trị điều hành là hội đồng quản trị và ban giám đốc", từ "ban kiểm soát và/hoặc các tiểu ban do các thành viên hội đồng quản trị độc lập phụ trách và/hoặc bộ phận kiểm soát nội bộ" so với "bộ máy tư pháp"... Tất nhiên, quy mô quốc gia và công ty là khác nhau nên việc thiết kế chi tiết sẽ phải điều chỉnh cho phù hợp với hiện trạng. Nhưng có một nguyên lý tối thượng mà cả hai đều phải tuân thủ hay thậm chí mọi tổ chức khác của con người đều phải đạt được đó là nguyên lý kiểm soát được quyền lực.

Chủ đề này rất rộng và rất phức tạp nhưng lại rất quan trọng, hy vọng người đọc tìm thêm các tài liệu khác để tự bổ sung cho mình và góp phần vào việc xây dựng mỗi tổ chức mà chúng ta đang tham gia.

 (còn tiếp)