(Hình: sưu tầm)
Hạnh phúc là gì, làm gì để có hạnh phúc?
Đây là câu hỏi mà có lẽ ai cũng đặt ra và mất nhiều công sức
để đi tìm câu trả lời, nhưng thực tế chẳng mấy người tìm ra chân lý của nó.
Phần lớn mỗi người chúng ta đều mải mê quay cuồng với những bộn
bề của cuộc sống thực tại mà không sao thoát ra khỏi cái vòng xoáy quay cuồng ấy,
để đến khi đã đi hết cuộc đời vẫn không hiểu chân giá trị của mình, mình sống
vì điều gì, và làm sao để có được cuộc sống hạnh phúc viên mãn.
Nếu không bình tâm, tĩnh lặng để suy ngẫm, chúng ta mãi
không thể hiểu hạnh phúc đến từ đâu? Hãy nhìn những con người đầy quyền lực, đầy
tiền bạc, đầy danh vọng… nhưng nếu nhìn sâu trong tâm can họ, vẫn luôn tồn tại
một nỗi niềm đau đáu, mà nhiều khi chính họ cũng không biết phải làm sao thoát
khỏi nó. Rất nhiều trường hợp, nhất là những ngôi sao truyền hình hay những người
làm việc trong giới nghệ thuật, nhìn vẻ ngoài của họ luôn hiện lên vẻ hào hoa, trang
nhã, rực rỡ ánh hào quang của thành công, của hạnh phúc…, nhưng cũng chính người
đó lại luôn gắn với hình ảnh của cảnh ăn chơi xa đọa, rượu chè, nghiện ngập,
chia tay, ly dị, ghen ghét, chỉ trích lẫn nhau,… thậm chí nhiều người, do không
thể chịu nổi áp lực đành chấm dứt cuộc đời trong tủi nhục, đau đớn… nghĩa là cuộc
đời của những con người đó đâu có thể gọi là hạnh phúc. Vậy quan niệm về hạnh
phúc có thực sự khó khăn đến vậy không?
Từ khi có loài người đến nay, chắc chắn có rất nhiều con người
vĩ đại đã tìm về khái niệm cơ bản này của con người, trong số những con người ấy,
chúng ta hãy cùng tham khảo những triết lý của Triết gia Jean-Jacques Rousseau
(1772-1778), người được mệnh danh là "Người thầy của nhân loại". Khái
niệm hạnh phúc được ông bàn luận tại tác phẩm kinh điển "Émile: hay là về
giáo dục", chúng ta cùng suy ngẫm một số triết lý kinh điển này của ông.
“Chúng ta không biết thế nào là hạnh phúc hay bất hạnh tuyệt
đối. Mọi sự đều hòa trộn trong cuộc đời này; ở đó người ta không nếm trải một cảm
giác nào thuần túy, người ta không ở cùng một trạng thái tại hai thời điểm khác
nhau. Các cảm nhận của tâm hồn chúng ta, cũng như những thay đổi của thân
thể chúng ta, ở tình trạng biến chuyển liên tục. Cái tốt và cái xấu là chung cho
tất cả chúng ta, nhưng với những mức độ khác nhau. Người hạnh phúc nhất là người
cảm thấy ít buồn khổ nhất; người khốn khổ nhất là người ít niềm vui nhất. Bao
giờ đau khổ cũng nhiều hơn niềm vui – điều này là chung cho tất cả chúng
ta. Vậy hạnh phúc của con người nơi trần thế này chỉ là một trạng thái phủ định;
hạnh phúc của con người được đo lường bằng số lượng ít nhất những nỗi khổ mà
anh ta chịu đựng.
Mọi cảm giác về buồn khổ đều không tách rời khỏi mong muốn
trốn thoát khỏi nó; mọi ý niệm về lạc thú đều xuất phát từ khát khao hưởng thụ
nó; mọi mong muốn đều giả định rằng có một sự thiếu thốn, hay nhu cầu về nó, và
tất cả những thiếu thốn mà ta cảm nhận thấy đều rất nặng nề; vậy nỗi khốn khổ của ta là ở tình trạng bất
tương xứng giữa mong muốn và khả năng hay năng lực của ta. Một con người có được
khả năng cân bằng với mong muốn sẽ là một cá thể hạnh phúc tuyệt đối.
=> Sự không tương xứng giữa mong muốn và khả năng đều
tạo ra đau khổ.
Vậy sự khôn ngoan sáng
suốt của con người hay bước đường dẫn tới hạnh phúc thực sự là gì? Nếu chỉ giảm
bớt mong muốn của chúng ta thì chưa đủ; bởi, nếu mong muốn thấp hơn khả năng của
ta, thì một phần năng lực của ta sẽ trở thành lãng phí, và ta sẽ không hưởng dụng
hết bản thể của mình. Cũng không phải chỉ là tăng cường năng lực của chúng ta,
bởi nếu mong muốn của ta đồng thời cũng tăng nhanh với tỷ lệ lớn hơn, thì ta
càng trở nên khốn khổ hơn mà thôi. Hạnh phúc thực sự là giảm bớt sự khác biệt
giữa mong muốn và khả năng của ta, là thiết lập một trạng thái cân bằng hoàn toàn
giữa năng lực và ý muốn của ta. Chỉ lúc ấy mọi sức lực đều được sử dụng, mà tâm
hồn vẫn an bình, và con người sẽ tìm thấy chính mình ở đúng vị trí mà anh ta
đang hiện hữu.
Thiên nhiên, vốn đã làm mọi điều mỹ mãn nhất, đã tạo lập cho
con người như vậy ngay từ thuở ban đầu. Thiên nhiên vốn dĩ chỉ cho con người những
mong muốn cần thiết cho việc tự bảo tồn nó và những năng lực đủ để thỏa mãn các
mong muốn ấy. Thiên nhiên đã để mọi mong muốn khác dự trữ trong đáy sâu tâm hồn
con người, và có thể lấy ra khi cần. Chỉ trong trạng thái nguyên sơ này chúng
ta mới tìm được sự cân bằng giữa mong muốn và khả năng, và con người mới không
khổ sở. Ngay khi những năng lực tiềm ẩn của tâm trí bắt đầu hoạt động, trí tưởng
tượng, nó mạnh mẽ hơn tất cả các phần còn lại, liền thức tỉnh, và vượt lên tất
cả các năng lực khác. Chính trí tưởng tượng mở rộng phạm vi khả năng cho chúng
ta, cho dù là tốt hay xấu, và do đó nó kích thích và nuôi dưỡng những ham muốn
bằng hy vọng thỏa mãn được chúng. Nhưng mục tiêu ban đầu có vẻ như trong tầm
tay lại trốn chạy nhanh hơn mức ta có thể đuổi theo theo nó; khi ta tưởng mình
đạt tới nó, nó liền biến chuyển, và một lần nữa lại chạy xa về phía trước ta.
Chúng ta không còn nhận thấy miền đất đã đi qua, nên chúng ta không còn nghĩ gì
về nó, cái mà trước kia ở ngay phía trước chúng ta, giờ đây trở nên trải rộng
mênh mông và kéo dài vô tận phía trước. Cứ như vậy chúng ta kiệt sức và không
bao giờ đạt tới đích, và càng tiến gần đến trạng thái an lạc, thì hạnh phúc lại
càng xa vời với chúng ta hơn.
Ngược lại, con người càng gần với trạng thái tự nhiên của
mình, thì sự khác biệt giữa năng lực và mong muốn càng nhỏ, và do đó hạnh phúc
càng ít xa rời anh ta. Khi anh ta có vẻ như không có tất cả mọi thứ lại là khi
anh ta ít khốn khổ hơn bao giờ hết; bởi nỗi khốn khổ không ở sự thiếu thốn các
thứ đó, mà ở những nhu cầu về thứ mà họ cảm thấy về nó khi họ chưa đạt được nó.
Thế giới hiện thực có những giới hạn của nó, thế giới tưởng
tượng lại là vô tận; vì không thể mở rộng được thế giới nọ, thì ta hãy thu hẹp
thế giới kia; bởi chỉ từ sự khác biệt giữa hai thế giới mà nảy sinh mọi nỗi khổ
khiến chúng ta thành bất hạnh thật sự. Ngoại trừ sức khoẻ, sức mạnh, và lương
tri, tất cả những điều tốt đẹp của cuộc sống đều là vấn đề của quan điểm nhìn
nhận; ngoại trừ sự đau đớn về thể xác và sự ăn năn, tất cả những đau khổ của
chúng ta đều là do tưởng tượng. Bạn sẽ nói với tôi rằng điều này là phổ biến;
Tôi chấp nhận nó, nhưng trong thực tế lại là không phổ biến, và nó chỉ là với
cái thực tế mà chúng ta đang quan tâm đến mà thôi.
Khi người ta bảo rằng con người là yếu đuối, người ta muốn
nói lên điều gì? Cái từ yếu đuối hàm
ý một mối quan hệ, đó là mối quan hệ của đấng tạo hóa đối với con người. Một
con côn trùng hoặc con sâu có sức mạnh vượt quá nhu cầu của nó là một hữu thể mạnh
mẽ; một con voi, một con sư tử, một người đi xâm lược, một anh hùng, một vị thần,
có nhu cầu vượt quá sức mạnh của mình lại là một hữu thể yếu đuối. Vị thiên thần
nổi loạn và chiến đấu chống lại bản năng tự nhiên của mình thì yếu hơn người sắp
lìa đời trong trạng thái viên mãn, là người sống hòa hợp, thuận theo tự nhiên.
Khi con người hài lòng với bản thân mình, người đó thực sự mạnh mẽ; khi anh ta cố
gắng gồng mình để có được nhiều hơn thì anh ta yếu ớt thực sự. Nhưng đừng tưởng
rằng bạn có thể tăng sức mạnh bên ngoài bằng cách tăng năng lực tiềm ẩn bên
trong của mình. Không phải như vậy; nếu niềm tự hào, niềm kiêu hãnh của bạn
tăng nhanh hơn sức mạnh của bạn thì lại là sự suy giảm. Chúng ta hãy đo lường phạm
vi mức độ ảnh hưởng của chúng ta và giữ ta ở trung tâm như con nhện trong mạng
lưới của nó; chúng ta sẽ có đủ sức mạnh cho nhu cầu của chúng ta, chúng ta sẽ
không có lý do để than thở về sự yếu đuối của chúng ta, bởi chúng ta không bao
giờ cảm nhận thấy nó.
Các động vật khác nhau đều chỉ có đủ năng lực cần thiết để sinh
tồn, riêng con người là có nhiều hơn. Liệu có lạ lùng không, khi chính sự dư thừa
này lại gây nên nỗi khốn khổ của con người? Ở mọi xứ sở, sức lực lao động của một
người thường lớn hơn nhu cầu sinh nhai đơn giản. Nếu anh ta đủ khôn ngoan để bỏ
qua sự dư thừa này, anh ta sẽ luôn có đủ, vì anh ta sẽ không bao giờ có quá nhiều.
Favorin nói rằng "Những nhu cầu lớn" xuất phát từ sự quá giàu có; và
thường, cách tốt nhất để có được những gì chúng ta muốn là bỏ đi những gì chúng
ta có. Bằng cách cố gắng gồng mình để gia tăng hạnh phúc mà ta biến hạnh phúc ấy
thành sự bất hạnh. Nếu một người đơn thuần chỉ muốn sống mà thôi, anh ta sẽ sống
hạnh phúc; và vì vậy anh ta sẽ sống nhân hậu, bởi anh anh ta đâu được lợi gì với
những thói xấu xa, vô đạo đức?
Nếu như chúng ta là bất tử, chúng ta sẽ là những hữu thể rất
khốn khổ; chết đi, chắc hẳn là tàn khốc, nhưng thật là ngọt ngào khi nghĩ rằng
chúng ta sẽ không sống mãi, và rằng, cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn khi chấm dứt những
nỗi khổ trên thế gian này. Nếu chúng ta được tặng sự bất tử trên trần gian, ai
là người (những người biết suy nghĩ chứ không phải tất cả mọi người) sẽ nhận
món quà đáng buồn ấy? Những nguồn lực nào, hy vọng nào, điều an ủi nào sẽ còn lại
với chúng ta, để chống lại những khắc nghiệt của số phận và sự bất công của người
đời? Người ngu dốt chẳng dự liệu gì hết; anh ta ít cảm nhận về giá trị của cuộc
sống và không sợ mất nó; người sáng suốt thì nhìn thấy những thứ có giá trị lớn
hơn và được người đó ưu ái hơn những giá trị khác và họ khư khư giữ lấy nó. Chỉ
có sự hiểu biết nửa vời và sự khôn ngoan sai lầm, dẫn dắt tầm nhìn của chúng ta
đến cái chết, và không vượt xa hơn nó; nó khiến cho cái chết trở thành tai họa
tệ hại nhất đối với ta. Người hiền minh chịu đựng tất cả các loại bệnh tật của
cuộc sống tốt hơn người khác, bởi vì anh ta biết, anh ta tất yếu phải chết. Cuộc
sống sẽ trở nên vô cùng giá trị khi chúng ta không biết thời điểm nào cái chết
sẽ chấm dứt nó, bởi nó sẽ xảy ra chẳng sớm thì muộn.
Ngoại trừ những căn bệnh về đạo đức là kết quả của thành kiến
và tội ác, và nó phụ thuộc vào chính chúng ta. Còn những căn bệnh về thể xác
thì hoặc là chấm dứt chúng hoặc là chấm dứt sự tồn tại của chúng ta. Thời gian
hay cái chết sẽ chữa lành những căn bệnh về thể xác, nhưng chúng ta càng ít biết
cách chịu đựng, chống đỡ bệnh tật, thì nỗi đau trong ta càng lớn, và chúng ta tự
hành hạ mình trong nỗ lực để chữa lành bệnh tật nhiều hơn sự hành hạ khi chịu đựng
bệnh tật. Sống thuận theo tự nhiên, hãy bình tâm, và chạy thoát khỏi thầy thuốc;
bạn sẽ không thoát khỏi cái chết, nhưng bạn sẽ chỉ chết có một lần, trong khi
đó các thầy thuốc sẽ làm cho bạn chết hàng ngày thông qua sự tưởng tượng, suy
nghĩ về bệnh tật; và y thuật dối trá của họ, thay vì kéo dài những ngày tháng
cho bạn, lại cướp đi của bạn sự thụ hưởng những ngày tháng đó và mang lại sự thỏa
mãn cho chính các thầy thuốc. Tôi luôn luôn hỏi điều gì thực sự tốt, y thuật đã
làm những gì cho nhân loại? Đúng vậy, các bác sĩ chữa lành bệnh cho một số người,
nhưng những bệnh nhân này rồi cũng sẽ chết, và chính các thầy thuốc sẽ giết
hàng triệu người, những người đang sống, khi họ luôn phải suy nghĩ, tưởng tượng
về bệnh tật. Nếu bạn khôn ngoan, bạn sẽ từ chối tham gia vào trò chơi xổ số này
khi tỷ lệ đặt cược rất cao so với bạn. Đau đớn, chết chóc, hoặc bạn cũng có thể
trở nên tốt hơn, nhưng bất cứ điều gì bạn làm là hãy sống trong khi bạn đang
còn sống.
Tất cả chỉ là sự điên rồ và mâu thuẫn trong các thiết chế của
con người. Khi cuộc sống của chúng ta mất dần giá trị, chúng ta càng thấy nó
đáng giá và lo lắng về nó nhiều hơn. Những người già thì nuối tiếc cuộc sống
hơn những người trẻ; họ không muốn mất đi tất cả những gì họ đã chuẩn bị cho việc
hưởng thụ cuộc sống. Ở tuổi sáu mươi, thật là ác nghiệt nếu chết trước khi bắt
đầu sống. Con người được cho là có khát vọng mạnh mẽ để tự bảo tồn mình, và
khát khao này thực sự tồn tại; nhưng chúng ta lại không nhận thức được khát
khao này, chúng ta phần lớn chỉ cảm nhận về các sản phẩm của con người. Ở trạng
thái tự nhiên, con người chỉ thiết tha để bảo tồn mạng sống của mình, khi đó
anh ta cũng có đủ phương kế cho việc bảo tồn mạng sống. Và khi sự tự bảo tồn
này không còn có thể nữa, anh ta chấp nhận từ bỏ theo số mệnh và chết đi mà
không dằn vặt một cách vô ích. Thiên nhiên dạy chúng ta quy luật đầu tiên là biết
chấp nhận từ bỏ, buông xuôi theo quy luật của tự nhiên. Người hoang dã, cũng giống
như những con thú hoang dã, rất ít giãy giụa chống lại cái chết, và chấp nhận
nó hầu như không than thở. Khi luật của tự nhiên này bị hủy bỏ, lý trí lại thiết
lập một luật khác thay thế, nhưng ít người phân biệt được sự khác biệt này, nên
sự chấp nhận từ bỏ này không bao giờ hoàn hảo và trọn vẹn như sự chấp nhận đối
với tự nhiên.
Sự cẩn trọng! Sự cẩn trọng không ngừng đặt chúng ta nhìn về
phía trước, cái tương lai mà trong rất nhiều trường hợp chúng ta không bao giờ
đạt tới, đó là nguồn gốc thực sự mọi khốn khổ của chúng ta. Thật điên rồ biết
bao khi một hữu thể phù du tạm bợ như con người lại luôn nhìn ra xa về một
tương lai rất hiếm khi đạt tới, trong khi lại bỏ qua hiện tại, cái mà mình đang
hiện hữu. Tất cả những thói điên rồ này lại càng tai hại hơn bởi vì nó không ngừng
tăng lên theo tuổi tác; những người già thì luôn nhút nhát, thận trọng, và khốn
khổ, thích làm những việc không cần thiết ngày hôm nay, những thứ họ cho là
sang trọng hàng trăm năm sau. Bởi vậy chúng ta níu chặt lấy mọi thứ, chúng ta
khư khư giữ lấy mọi thứ; chúng ta lo lắng về thời gian, địa điểm, con người, sự
vật, tất cả những gì đang tồn tại và tất cả những gì sẽ tồn tại; chúng ta là
chính mình nhưng chỉ là một phần rất nhỏ của chính chúng ta. Có thể nói chúng
ta phân tán, dàn trải chính mình trên toàn trái đất (cho quá nhiều mục tiêu), và trở nên mong manh trên khoảng rộng mênh
mông này. Không ngạc nhiên khi nỗi thống khổ của chúng ta tăng lên gấp bội, khi
chúng ta có thể bị tổn thương ở tất cả mọi phía. Bao ông hoàng sầu não vì mất một
xứ sở mà ông ta chưa từng nhìn thấy, và bao nhiêu thương gia than thở ở Paris
chỉ vì có điều không may xảy ra ở Ấn Độ.
Có phải tự nhiên đem con người đi xa khỏi bản thân họ đến thế
hay không? Có phải tự nhiên muốn cho con người biết được số phận của mình qua
người khác, thậm chí còn là kẻ biết cuối cùng; vì vậy có người chết đi trong hạnh
phúc hoặc chết đi trong khốn khổ trước khi anh ta biết điều gì là có giá trị với
anh ta. Tôi nhìn thấy một con người khỏe mạnh, vui vẻ, cường tráng, đầy sinh lực;
sự hiện diện của người ấy khơi gợi niềm vui; mắt người ấy biểu lộ sự hài lòng,
niềm an lạc; người ấy mang theo mình hình ảnh của hạnh phúc. Nhưng một lá thư từ
bưu điện gửi đến; con người hạnh phúc nhìn bức thư, nó được gửi cho anh ta, anh
ta mở ra, đọc thư. Lập tức thần sắc anh ta thay đổi; anh ta tái mặt đi, ngất xỉu.
Tỉnh lại, anh ta khóc lóc, giãy giụa, rền rĩ, bứt tóc, dứt tai, kêu gào vang dội,
anh ta như bị co giật. Kẻ điên cuồng mất trí! Mảnh giấy kia đã làm hại gì anh
ta? Nó đã làm mất của anh ta cái chân hay cái tay? Nó đã khiến anh phạm tội ác
gì? Rốt cuộc nó đã thay đổi gì trong bản thân anh ta để đẩy anh vào tình trạng
mà tôi đang thấy?
Giả sử lá thư bị thất lạc, giả sử một bàn tay nhân ái ném nó
vào ngọn lửa, thì số phận con người vừa hạnh phúc vừa bất hạnh đồng thời kia,
dường như là một vấn đề hết sức dị thường. Các vị sẽ bảo rằng nỗi bất hạnh của
anh ta là có thực. Rất đúng, nhưng anh ta không cảm thấy nó. Vậy nó ở đâu? Hạnh
phúc của anh ta là do tưởng tượng. Nếu giả sử như vậy thì sức khỏe, sự giàu có,
sự vui tươi, niềm an lạc, sự hài lòng trong tâm trí, chỉ là những ảo ảnh. Chúng
ta không còn sống ở nơi ta đang hiện hữu, chúng ta sống bên ngoài nó. Có lợi
ích gì cho chúng ta khi sống trong trạng thái luôn lo sợ về cái chết, trong khi
tất cả những gì làm cho cuộc sống trở nên đáng sống lại là ở trong chính chúng
ta.
Trời ơi! Hãy sống cuộc sống của chính bạn và bạn sẽ không
còn bị khổ đau nữa. Hãy ở lại nơi mà tự nhiên đã dành cho bạn và không có gì có
thể kéo bạn ra khỏi đó. Đừng chống lại quy luật khắc nghiệt của tất yếu, và đừng
làm cho mình trở nên kiệt quệ, vì cứ muốn cưỡng lại quy luật ấy, những sức lực
mà thượng đế ban cho anh không phải để mở rộng hoặc kéo dài sự tồn tại của anh,
mà chỉ để bảo tồn nó theo đúng như ý của tạo hóa đã dành cho. Tự do của anh,
quyền lực của anh, chỉ trải ra xa rộng ngang tầm sức lực tự nhiên của anh, mà
chẳng vượt quá; bất cứ thứ gì vượt quá đều sẽ chỉ là trạng thái nô lệ, ảo tưởng,
dụ hoặc. Ngay cả quyền lực thống trị cũng mang tính nô lệ khi nó lệ thuộc vào ý
kiến dư luận; bởi anh ta phụ thuộc vào thiên kiến của những kẻ do anh chi phối
bằng các thiên kiến. Để điều khiển họ xử sự theo ý anh, anh phải xử sự theo ý họ.
Họ chỉ cần thay đổi cách nghĩ, thế là anh sẽ buộc phải thay đổi cách hành động.
Những kẻ tiếp cận anh chỉ cần biết chi phối ý kiến của dân chúng mà anh tưởng
là đang bị anh chi phối, hoặc ý kiến của những người được anh sủng ái đang chi
phối anh, hoặc ý kiến của gia đình anh. Giả sử anh có tài năng phi thường giống
như Themistocles (một chính khách nổi tiếng
người Athènes 525-460 TCN, ông nói với bạn bè rằng: thằng bé mà bạn đang nhìn
thấy đây, là chúa tể của Hy Lạp; vì nó chi phối mẹ nó, mẹ nó chi phối tôi, tôi
chi phối người Athènes, còn người Athènes chi phối dân Hy Lạp. Ôi! Nhiều khi
người ta tìm thấy những chỉ huy xiết bao bé nhỏ của những đế chế lớn lao nhất,
nếu từ ông hoàng người ta đi xuống dần từng bậc cho đến bàn tay đầu tiên ngấm
ngầm khởi động), thì các tể tướng, các cận thần, linh mục, binh lính, người
hầu, những kẻ lắm lời, hay thậm chí là con cái anh, sẽ chỉ đạo anh như chính
anh là một đứa trẻ giữa những quân đoàn của anh. Dù anh có làm gì đi nữa, uy
quyền thực sự của anh không bao giờ đi xa hơn các năng lực thực sự nơi anh.
Ngay khi buộc phải nhìn bằng con mắt của kẻ khác, là phải muốn theo ý muốn của
họ. Anh tự hào bảo rằng: “Dân chúng là thuộc hạ của tôi”. Được. Nhưng anh thì
là gì? Là thuộc hạ của các cận thần của anh. Và cận thận của anh, họ là ai? Là
thuộc hạ của các thư ký, các nhân tình, là người hầu của những người hầu họ.
Anh hãy nắm chặt mọi thứ, hãy chiếm đoạt mọi thứ, rồi vung tiền bạc rủng rỉnh;
hãy lập những phân đội đại bác; hãy dựng những giá treo cổ, những xa hình; hãy tạo
ra các đạo luật, các pháp lệnh; hãy gia tăng bọn do thám, các binh lính, các
đao phủ, các nhà tù, xiềng xích. Ôi con người tội nghiệp, tất cả những thứ đó
giúp gì cho anh? Các anh chẳng vì thế mà được phục vụ tốt hơn, hay bị ăn cắp ít
hơn, hoặc bị lừa dối ít hơn, anh cũng sẽ không tiến gần hơn đến quyền lực tuyệt
đối. Và các anh sẽ tiếp tục nói rằng: “Chúng tôi sẽ”, và các anh sẽ tiếp tục
làm những điều mà kẻ khác muốn.
Chỉ có một người duy
nhất, người làm theo chính ý muốn của anh ta, người có thể làm điều ấy bằng
chính đôi tay của anh ta; do đó, điều tốt nhất với con người không phải là quyền
lực mà là tự do. Con người thực sự tự do chỉ khát khao điều gì anh ta có khả
năng làm được, và làm điều gì anh ta thích. Đó là phương châm cơ bản của tôi.
Hãy áp dụng phương châm đó cho tuổi thơ, và mọi quy tắc giáo dục sẽ suy ra từ
đó.
Từ đây ta sẽ ứng dụng quan niệm về hạnh phúc vào giáo dục trẻ em
Xã hội đã làm cho con
người thành yếu đuối hơn, không chỉ tước đi quyền của con người đối với sức lực
của chính mình, mà hơn nữa khiến cho những sức lực ấy thành không đủ cho những
nhu cầu thiết yếu của anh ta. Chính đó là điều khiến cho các mong muốn của con
người gia tăng cùng với sự yếu đuối, và đó chính là điều làm nên sự yếu đuối của
tuổi thơ so với tuổi trưởng thành. Nếu người trưởng thành là một hữu thể mạnh,
và nếu đứa trẻ là một hữu thể yếu, thì không phải vì người lớn có sức mạnh tuyệt
đối lớn hơn đứa trẻ, mà đó là vì người lớn có thể tự túc một cách tự nhiên theo
đúng bản năng, còn đứa trẻ thì không thể như vậy. Vì vậy, người lớn có nhiều
mong muốn hơn, còn đứa trẻ thì thường thất thường hơn, điều này nghĩa là, mong
muốn của trẻ chưa hẳn là những nhu cầu thực sự cần thiết, và nó chỉ được thỏa
mãn nhờ vào sự giúp đỡ của người khác mà không thể tự túc được.
Tôi đã nói rõ lý do của trạng thái yếu đuối này. Lòng yêu
thương của cha mẹ với trẻ em là tự nhiên; nhưng khi tình yêu thương trở thành sự
chăm sóc con cái một cách thái quá, nó có thể là mong muốn đơn thuần, hay nó có
thể là bị lạm dụng. Cha mẹ sống trong điều kiện của đời sống xã hội thông thường,
vì sự cẩn trọng, đã mang con mình vào trạng thái này quá sớm. Bằng việc gia
tăng các nhu cầu cần thiết của trẻ, họ không những không làm giảm bớt đi mà còn
làm gia tăng sự yếu đuối của nó. Họ làm gia tăng hơn nữa sự yếu đuối ấy bằng
cách đòi hỏi ở đứa con, điều mà tự nhiên không đòi hỏi ở nó, bằng cách phục vụ
ý muốn của cha mẹ về những thứ hơn cả mong muốn của chính nó, trong trạng thái
sức lực ít ỏi của đứa con có được. Do phải làm nô lệ cho mong muốn của cha mẹ
hoặc của chính đứa trẻ, thay vì phải hiểu rằng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa cha mẹ
và con cái là xuất phát từ sự yếu ớt vốn có của đứa trẻ và tình thương yêu bản
năng của cha mẹ dành cho con cái. Với cách như vậy, cha mẹ đã biến sự phụ thuộc
theo lẽ tự nhiên trở thành tình trạng nô lệ lẫn nhau giữa cha mẹ và con cái.
Người khôn ngoan thì biết ở giữ đúng vị trí của mình; nhưng
đứa trẻ thì không biết vị trí của nó nên tự nó không thể giữ được vị trí của
nó. Đứa trẻ có hàng ngàn cách để ra khỏi vị trí đó, và công việc của những người
dạy dỗ nó là phải giữ nó ở lại vị trí ấy, và nhiệm vụ này không dễ chút nào. Nó
không phải là thú vật mà cũng không phải là người trưởng thành, nó là một đứa
trẻ. Cần để nó cảm nhận được sự yếu đuối ấy nhưng không phải đau khổ vì sự yếu
đuối ấy; cần để nó bị phụ thuộc chứ không khuất phục; cần để nó yêu cầu chứ
không ra lệnh. Nó chỉ phục tùng người khác bởi nhu cầu cần thiết của nó, bởi vì
họ thấy rõ hơn cái gì thực sự cần thiết với nó, cái gì có thể trợ giúp hoặc cản
trở sự tồn tại của nó. Không ai, ngay cả người cha, có quyền bắt đứa trẻ làm những
điều chẳng có lợi ích gì cho nó.
Khi những thiên hướng tự nhiên của chúng ta chưa bị can thiệp
bởi các thành kiến và các thiết chế của con người, thì hạnh phúc của trẻ thơ
cũng như của người lớn cốt ở sự tận hưởng sự tự do của mình; nhưng tự do của trẻ
thơ bị giới hạn bởi sự yếu đuối của nó. Ai làm điều mình muốn là người hạnh
phúc, nó mang lại cho anh ta cảm giác tự thỏa mãn; đó là trường hợp của người
trưởng thành sống trong trạng thái tự nhiên. Ai làm điều mình muốn mà lại không
thấy hạnh phúc, là bởi vì nhu cầu của anh ta vượt quá sức lực của mình: đó
chính là trường hợp của đứa trẻ cho dù nó ở trong trạng thái tự nhiên. Ngay
trong trạng thái tự nhiên, trẻ thơ cũng chỉ được hưởng một trạng thái tự do
không hoàn toàn, giống như sự tự do mà người lớn được hưởng trong đời sống xã hội.
Mỗi người trong chúng ta, do không thể không cần đến sự hỗ trợ của những người
khác, nên lại trở thành yếu đuối và khốn khổ. Chúng ta được cấu tạo để là người
lớn, nhưng các luật lệ và các phong tục tập quán lại ném chúng ta trở lại trạng
thái của trẻ thơ. Những người giàu có, những người cao sang, những bậc vua chúa
đều là những đứa trẻ, thấy người ta sốt sắng giảm bớt nỗi khốn khổ cho mình, những
hành động đó tạo cho họ một sự tự cao tự đại ấu trĩ, và họ trở nên kiêu hãnh vì
những sự chăm sóc mà mọi người sẽ chẳng dành cho họ nếu họ là người trưởng
thành.
Những sự xem xét này hết sức quan trọng, và chúng giúp giải
quyết mọi mâu thuẫn của hệ thống xã hội của chúng ta. Có hai loại phụ thuộc:
tình trạng phụ thuộc sự vật, mang tính tự nhiên; tình trạng phụ thuộc con người,
mang tính xã hội. Tình trạng phụ thuộc sự vật, vì không có một ý nghĩa đạo đức
nào, nên không hề phương hại đến tự do, và không tạo ra sự xấu xa; còn tình trạng
phụ thuộc con người, thì lộn xộn không theo trật tự nào, nên sinh ra mọi thói xấu
xa, và chính do sự phụ thuộc kiểu chủ nhân và nô lệ như vậy (trong trường hợp
nuôi dạy trẻ là quan hệ giữa cha mẹ và con cái) lại làm suy đồi lẫn nhau. Nếu
có phương kế nào để chữa trị những xấu xa trong xã hội này, thì đó là đem luật
lệ thay cho cá nhân con người, trang bị cho các ý muốn chung một sức mạnh thực
sự, cao hơn sức mạnh của bất kỳ ý muốn của cá nhân riêng lẻ nào. Nếu luật lệ của
quốc gia, giống như luật của tự nhiên (vừa nghiêm khắc lại vừa hài hòa), thì nó
sẽ không bao giờ bị phá vỡ bởi bất kỳ sức mạnh nào của con người, lúc đó, tình
trạng phụ thuộc con người sẽ lại trở thành tình trạng phụ thuộc sự vật; và tất
cả những lợi ích của trạng thái tự nhiên sẽ được kết hợp với tất cả những lợi
ích của đời sống xã hội trong toàn thể cộng đồng của quốc gia đó. Sự tự do vốn
giữ cho con người tránh khỏi những thói xấu xa, lúc này sẽ kết hợp với đạo đức
để nâng con người lên tới đức hạnh.
…
Trong cõi trần ai này, hàng ngàn nỗi đam mê cháy bỏng thu
hút tình cảm nội tâm và lừa gạt niềm ăn năn, hối tiếc (khi hành xử đê tiện) trong
mỗi con người. Những điều nhục nhã, những tai họa phải chịu đựng khi thực hành
các đức hạnh, nó đã cản trở người ta cảm nhận sự thú vị của việc thực hành này.
Nhưng khi nào trút hết đi được các ảo tưởng mà các cảm giác do các giác quan thể
xác của ta tạo ra, thì chúng ta sẽ thấy được niềm vui, niềm hân hoan mà Đấng tạo
hóa dành cho ta, và thấy được chân lý vĩnh hằng mà Người là nguồn cội; khi tất
cả sức mạnh của tâm hồn của chúng ta tồn tại cùng với vẻ đẹp của trật tự tự
nhiên, chúng ta hoàn toàn chú tâm vào việc so sánh điều chúng ta đã làm với điều
chúng ta phải làm; khi đó, chính tiếng nói của lương tri sẽ dành lại sức mạnh
và quyền thống trị của nó; và lúc đó là thời khắc khoái cảm thuần khiết sinh ra
từ sự thỏa mãn và hài lòng về chính mình, hay con người đạt được trạng thái hạnh
phúc viên mãn nhất.”
Như vậy, hạnh phúc không phải là quyền lực, tiền bạc, danh vọng…
không phải ai có những thứ đó nhiều hơn thì sẽ hạnh
phúc hơn những người khác. Hạnh phúc tùy thuộc vào mỗi người, bởi vì nó là sự cân bằng giữa năng
lực và mong muốn của mỗi cá nhân. Năng lực thì phải dày công rèn luyện mới có thể có được, còn nhu cầu thì phải luôn biết kiểm soát, kiềm chế nó, để nó đạt trạng thái cân bằng với năng lực của mỗi người. Và khi ta làm được những gì mà ta phải
làm thì ta đạt được trạng thái tự thỏa mãn hay hạnh phúc mãn nguyện nhất.
Trên đây là những triết lý được trích ra từ tác phẩm kinh điển
"Émile: hay là về giáo dục" của Triết gia Jean-Jacques Rousseau đã được dịch giả Lê Hồng Sâm và Trần Quốc
Dương dày công chuyển ngữ ra tiếng Việt, giúp cho chúng ta thêm cơ hội được tiếp
cận tác phẩm kinh điển này. Tuy nhiên, do hiểu biết hạn hẹp nên chưa thể hiểu
được hết ý nghĩa sâu xa của tác phẩm, vì vậy xin được điều chỉnh lại một số từ
ngữ và văn phong cho phù hợp với thời điểm hiện nay cũng như khả năng hiểu biết
hạn hẹp của mình. Thành thật xin lỗi Tác giả và Dịch giả cho sự điều chỉnh này.
Trân trọng cảm ơn.