Mặc dù tiêu đề của
đoạn ghi chú là “Quản trị công ty và quản trị nhà nước”, tuy nhiên nội dung đoạn
ghi chú này có lẽ không liên quan nhiều đến vấn đề quản trị công ty bởi phạm vi
ở đây không đủ để đi sâu hơn và xin hẹn ở một thời điểm khác.
Những suy nghĩ về
chủ đề này cũng xuất hiện từ lâu, nhưng vẫn không có nhiều động lực để ghi lại
một cách cụ thể. Nhân những sự việc xảy ra với những người xung quanh mình thời
gian gần đây, vì vậy mà có thêm động lực để nói ra đôi lời suy nghĩ của cá nhân
dựa trên một số thông tin lượm lặt được về chủ đề này. Từ câu chuyện đi tiễn biệt
2 người bạn đồng môn lên đường thực hiện “Giấc mơ Mỹ”
của mình để tiếp tục bước lên những nấc thang tri thức mới; đến chuyện một người
thầy luôn tâm huyết với sự phát triển của đất nước đã phải thốt lên từ “quá chán
nản” và không có cơ may nào cho Việt Nam trong ít nhất 5-10 năm tới, rồi chuyện
anh bạn đồng nghiệp cũ đặt câu hỏi rằng “Người làm ra luật (hay quy định, quy tắc)
có bắt buộc phải tuân theo luật (quy định, quy tắc) đó không?”, và chuyện lâu
lâu lại có những đề nghị góp ý xây dựng, sửa đổi luật này, luật nọ từ các cơ
quan thuộc khối hành pháp, vân vân và vân vân…
Thời còn đi học,
khi được nghe PGS. TS. Phạm Duy Nghĩa so sánh giữa quản trị nhà nước (state governance)
và quản trị công ty (corporate governance) (chú thích thêm governance ở đây được
hiểu theo nghĩa là kiểm soát và quản trị), theo đó để quản trị một nhà nước tốt,
đưa đất nước phát triển thịnh vượng thì phải coi quản trị nhà nước tương tự như
quản trị một công ty, bởi ở đó cũng tồn tại vấn đề uỷ quyền – thừa hành, cụ thể
là giữa chủ sở hữu (toàn thể công dân) và người quản lý, điều hành (bộ máy quản
lý nhà nước). Có lẽ vì quản trị công ty là một khái niệm gần gũi, dễ hiểu hơn đối
với các học viên nói riêng và phần lớn mọi người nói chung. Nói như vậy để mọi
người dễ hình dung hơn về vấn đề kiểm soát và quản trị một quốc gia. Sau khi
dành thời gian tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này thì thấy rằng, khái niệm quản trị
công ty chỉ xuất hiện gần đây (từ thập niên 70-80 của thế kỷ 20), trong khi
khái niệm về quản trị nhà nước đã xuất hiện trong thế giới loài người từ trước
Công nguyên, và có thể nói những triết gia Hy Lạp lỗi lạc như Plato, Aristoteles
đã đặt nền móng cơ sở cho tư tưởng về quản trị nhà nước. Đến thời kỳ khai sáng,
các nhà tư tưởng về lý luận chính trị như John Lock (1632-1704), C.L. Montesquieu
(1689-1775), J.J. Rousseau (1712-1778) và Alexis de Tocqueville (1805-1859)... đã
phát triển và hoàn thiện khái niệm này một cách toàn diện. Đến nay, lý thuyết
này vẫn còn được áp dụng ở hầu hết các quốc gia tiên tiến trên thế giới. Như vậy,
có thể nói ngược lại là: phải coi quản trị một công ty, một tổ chức bất kỳ như
quản trị một quốc gia.
Nội
dung cốt lõi của lý thuyết kiểm soát và quản trị là phải kiểm soát quyền lực.
Điều này, xuất phát từ bản chất tự nhiên của quyền lực, vì quyền lực luôn có xu
hướng tự mở rộng, tự tăng cường vai trò của mình, ở đâu có quyền lực là có khả
năng xuất hiện xu thế lạm quyền và chuyên quyền, cho dù quyền lực ấy thuộc về
ai, chủ thể nào, hay nhóm người nào. Hay như nhà sử học, chính trị học Lord Acton từng nói: "Quyền lực làm con người ta tha hóa, quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến tha hóa tuyệt đối". Vì vậy, để ngăn ngừa các hành vi lạm quyền
của các chủ thể nắm giữ quyền lực, thì phải cấu trúc hệ thống nhằm giới hạn quyền
lực, đảm bảo mang lại lợi ích chung cho toàn bộ các chủ thể trong hệ thống, tổ
chức hay một quốc gia. Cách tốt nhất để chống lạm quyền là giới hạn quyền lực bằng
các công cụ pháp lý, và vì vậy không phải là tập trung quyền lực, mà là phân
chia quyền lực. Muốn hạn chế quyền lực thì trước hết phải phân quyền, và sau đó
phải làm cho các nhánh quyền lực đã được phân chia chỉ được phép hoạt động
trong phạm vi quy định của pháp luật.
Quyền
lực được phân chia thành các nhánh khác nhau, do các cơ quan khác nhau nắm giữ,
để không một cá nhân nào, nhóm người nào hay tổ chức nào nắm được trọn vẹn quyền
lực. Hoạt động của các cơ quan quyền lực cần có sự chuyên môn hóa, mỗi cơ quan
chỉ hoạt động nhằm thực hiện chức năng riêng của mình, không làm ảnh hưởng tới
hoạt động của các cơ quan khác.
Quyền
lực giữa các cơ quan phải cân bằng, không có loại quyền lực nào vượt trội hơn.
Các cơ quan quyền lực giám sát, kiềm chế và đối trọng lẫn nhau (Checks and
Balances), để không có một cơ quan nào có khả năng lạm quyền. Với cấu trúc
quyền lực này, sẽ đảm bảo tính trách nhiệm của các cơ quan quyền lực, được gọi
là kiểm tra, giám sát bên trong. Cấu trúc này sẽ tạo ra một cơ chế mặc nhiên
ai nắm và được phân công sử dụng quyền lực cũng phải bị kiểm tra, theo
nguyên tắc phòng ngừa từ trong hệ thống. Còn cơ chế kiểm tra, giám sát được tiến
hành từ bên ngoài thường chỉ được tiến hành một khi đã có hậu quả xảy ra.
Nhiều
quan điểm cho rằng, để một tổ chức hay rộng hơn là một quốc gia phát triển thì
cần có một “minh quân” dẫn dắt. Tuy nhiên, với lý thuyết về kiểm soát quyền lực
này sẽ giúp phản biện lại quan điểm trên. Bởi dù cho đất nước có được một “minh
quân” dẫn dắt mà trong cấu trúc của hệ thống không có sự giới hạn quyền lực,
cũng như cân bằng đối trọng giữa các cơ quan nắm quyền lực thì cũng rất dễ dẫn
tới tình trạng “minh quân” sẽ lạm quyền, nhằm mang lại lợi ích cho nhóm người
nào đó mà không nhằm mục tiêu đưa hệ thống tiến về phía trước.
Theo
học thuyết phân quyền thì về cơ bản quyền lực tối cao nhà nước được phân thành
ba quyền là: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các quyền này được thực hiện độc lập
với nhau, kiểm soát lẫn nhau và kiềm chế lẫn nhau.
Hiến
pháp Việt Nam năm 2013 cũng quy định: "Quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, tư pháp, hành pháp”.
Một
số quốc gia thì quyền lực nhà nước có khi được chia thành 4, 5 hoặc 6… bộ phận
tuỳ hoàn cảnh ra đời của bản hiến pháp của mỗi quốc gia.
Nhưng
dù phân chia thế nào thì ở các quốc gia phát triển luôn đảm bảo quyền lực giới
hạn của mỗi cơ quan, độc lập, kiểm tra, giám sát, đối trọng giữa các cơ quan (nguyên
lý Checks and Balances).
Qua thời gian, dù cho vẫn còn tồn tại những quan điểm
khác nhau giữa các nhà tư tưởng lỗi lạc về chủ đề này, hay những biến thể khi
đi vào áp dụng thực tế ở các quốc gia hiện nay, nhưng về cơ bản đều hướng đến
xây dựng một nền thể chế đảm bảo quyền tự do của các công dân, chống lại chế độ
chuyên chế, độc đoán, độc tài, hay quyền lực luôn được kiểm soát.
Về khoa học quản trị thì giữa quản trị nhà nước và quản trị một công ty có rất nhiều điểm tương đồng. Từ "hiến pháp" so với "điều lệ công ty", từ "công dân/đại diện của công dân là các đại biểu quốc hội" so với "cổ đông", từ "bộ máy hành pháp" so với "bộ máy quản trị điều hành là hội đồng quản trị và ban giám đốc", từ "ban kiểm soát và/hoặc các tiểu ban do các thành viên hội đồng quản trị độc lập phụ trách và/hoặc bộ phận kiểm soát nội bộ" so với "bộ máy tư pháp"... Tất nhiên, quy mô quốc gia và công ty là khác nhau nên việc thiết kế chi tiết sẽ phải điều chỉnh cho phù hợp với hiện trạng. Nhưng có một nguyên lý tối thượng mà cả hai đều phải tuân thủ hay thậm chí mọi tổ chức khác của con người đều phải đạt được đó là nguyên lý kiểm soát được quyền lực.Chủ đề này rất rộng và rất phức tạp nhưng lại rất quan trọng, hy vọng người đọc tìm thêm các tài liệu khác để tự bổ sung cho mình và góp phần vào việc xây dựng mỗi tổ chức mà chúng ta đang tham gia.
(còn tiếp)