Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 23 tháng 12, 2018

Thiền, thiền hành – Hãy bắt đầu từ sự đơn giản

Thiền - Bắt đầu từ sự đơn giản
Nói đến thiền, chúng ta thường nghĩ đến hình ảnh những vị thiền sư ngồi yên bất động với những tư thế khó trong một không gian tĩnh lặng, thậm chí phim ảnh còn làm ra hình ảnh những làn khí mang năng lượng vô cùng lớn bốc ra từ cơ thể của thiền giả… Chính những điều này làm cho “thiền” trở nên xa rời hơn với đời sống thực tại, nó trở nên quá khó khăn thậm chí đến mức phi thường, do đó những người bình thường không thể thực hiện được. Thực ra đó chỉ là một trong nhiều cách để thực hiện thiền tập. Đúng ra, những gì mà mọi người thường thấy về thiền chỉ nên là nguồn cảm hứng cho người nào muốn luyện tập thiền với mong muốn có được nguồn sức mạnh phi thường, còn với hầu hết mọi người khi bắt đầu luyện tập mà lại luôn nghĩ về những hình ảnh ấy thì chỉ làm cho chúng ta nản lòng và từ bỏ vì quá khó khăn để đạt được mà thôi. Cần hiểu rằng, thiền tập đơn giản hơn thế rất nhiều.

Hình: sưu tầm từ internet
Theo nguyên lý căn bản nhất và mục tiêu đơn giản nhất thì thiền chính là giúp chúng ta tập trung hơn. Hãy bình tĩnh suy ngẫm lại chúng ta sẽ thấy, rất nhiều khi cơ thể (thân) chúng ta ngồi đây nhưng suy nghĩ (tâm) của ta thường hướng đến một đối tượng nào đó ở chỗ khác. Chúng ta thường hay lo lắng nhiều về tương lai hay đau buồn về quá khứ. Đang ngồi ăn nhưng trong đầu luôn bộn bề những lo toan về cuộc sống, về những dự án, những công việc đang còn dang dở. Đang ngồi trong không gian tĩnh mịch và được nghe những bản nhạc du dương, nhưng chúng ta lại nghĩ về những hoạt động vui chơi cuồng nhiệt, hay về một trận bóng đá có đội bóng chúng ta yêu thích đang thi đấu, hay đau đáu về những sai lầm đã mắc phải trong quá khứ. Đang chơi đùa và được nghe những tiếng cười của con trẻ nhưng trong đầu ta lại lo nghĩ về những vấn đề có ảnh hưởng đến sự thành bại trong công việc kinh doanh. Với thời đại của smart phone lại càng tệ hại hơn, dù đang làm bất cứ việc gì, chúng ta thường có thói quen cầm theo chiếc điện thoại để lướt qua đủ các loại dòng tin tức, các thông báo trên màn hình gửi đến ta khiến ta bị cuốn theo nó một cách rất bị động. Chúng ta tưởng rằng cùng lúc chúng ta có thể làm được rất nhiều việc một cách hiệu quả, nhưng thực tế nó lại làm hại chúng ta. Đầu óc chúng ta suy nghĩ về rất nhiều thứ cùng một lúc, nó gây ra những cảm xúc hoặc quá vui, khi lại quá buồn, trong khi lại bỏ qua hiện tại. Tình trạng này là do thân và tâm của ta mỗi thứ một nơi, thân ở nơi này nhưng tâm luôn bay bổng nơi xa xăm nào đó. Hậu quả là, những cảm xúc này vừa tiêu tốn rất nhiều năng lượng của ta một cách vô ích thậm chí lại còn làm hại đến tâm lý của ta, đầu óc ta luôn bị rối loạn, lúc nào ta cũng có cảm giác là con người vội vã, nó khiến cho chúng ta không thể cảm nhận được hiện tại, không còn biết niềm vui nào ở hiện tại. Nếu cứ hành động như vậy liên tục sẽ thành thói quen, khiến chúng ta không thể tập trung làm bất cứ việc gì, và chất lượng cuộc sống sẽ giảm đi rất nhiều giá trị. Vì vậy, điều quan trọng nhất của thiền tập là giúp cho chúng ta tập trung, làm cho thân và tâm hợp lại với nhau, hòa vào làm một để cảm nhận giây phút của hiện tại và của thực tại, lúc đó mới đúng nghĩa là chúng ta đang sống.

Chính vì lẽ đơn giản đó nên đôi khi chỉ là 1-2 phút tập trung hoàn toàn vào hiện tại cũng chính là thiền tập rồi. Do đó, chúng ta cũng có thể thực hiện thiền ở bất cứ đâu, dù ở nhà hay nơi làm việc, thậm chí ngay cả khi đang đi trên đường... và cũng chỉ cần 1-2 phút đơn giản đó thôi, nhưng lại mang lại cho chúng ta rất nhiều lợi ích về sức khỏe thể chất cũng như sức khỏe tinh thần. Tùy vào hoàn cảnh cuộc sống mỗi người, chúng ta có thể thực hiện thiền tập theo những cách khác nhau, dù ở tư thế đi, đứng, ngồi, nằm… chúng ta đều có thể thực hiện thiền tập. Ở mỗi cấp độ của thiền tập cũng có cách thực hiện khác nhau, nó cũng tương tự như khi chúng ta luyện tập một kỹ năng nào đó thì đều phải đi từ đơn giản đến phức tạp. Muốn đạt đến mức độ chuyên nghiệp hay cao hơn là phi thường thì cần phải có phương pháp luyện tập đúng đắn theo một vòng xoáy đi lên trong luyện tập (hay trong học tập) một kỹ năng là: i) Yêu cuồng nhiệt kỹ năng đó; ii) Luyện tập ở cường độ cao, liên tục; và iii) Tiến bộ nhanh. Nhưng quan trọng, để có thể yêu cuồng nhiệt một kỹ năng thì nhất thiết ta phải chọn được loại kỹ năng tốt (tốt cho xã hội hay ít nhất là tốt cho chính mình mà không làm tổn hại người khác), đúng đắn thì mới có thể yêu nó liên tục và lâu bền được (chủ đề này nằm ngoài phạm vi của bài viết nên chỉ nói ngắn gọn ở đây).

Nói một cách chuyên môn, theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh thì: “Thiền tập gồm hai giai đoạn. Thứ nhất là thiền chỉ, chỉ có nghĩa là dừng lại, dừng lại mọi suy nghĩ tập trung vào một điểm để làm tâm tĩnh lặng. Thứ hai là thiền quán, là khả năng chú tâm nhìn sâu để đạt được sự thấu hiểu. Trong thiền chỉ, ta chỉ chú tâm vào một việc, ví dụ như bước chân hay hơi thở”. Chú tâm luôn có nghĩa là chú tâm vào một cái gì. Chánh niệm luôn là chánh niệm về một cái gì. Ta không thể chú tâm hay chánh niệm về không-một-cái-gì. Vậy thì muốn thực tập chánh niệm, ta cần một đối tượng. Khi chú tâm vào hơi thở thì hơi thở là đối tượng của sự chú tâm và chánh niệm. Khi tạo ra năng lượng chánh niệm thì năng lượng ấy sẽ ôm ấp đối tượng của niệm và giữ nó sống động trong tâm trí.
Tiếp tục duy trì chánh niệm vào đối tượng, ta có thể đạt tuệ giác. Đây là bước thứ hai của thiền tập. Ví dụ khi giận, ta muốn tìm ra lý do. Thực tập niệm và định giúp ta thấy được bản chất của cơn giận và tuệ giác đó giải phóng ta khỏi buồn giận. Đối tượng của niệm và định càng hấp dẫn ta càng dễ định tâm, nếu không thì dù cố gắng ta vẫn khó chú tâm. Do đó, bí quyết là chọn một đối tượng hấp dẫn; đối tượng mà hấp dẫn thì tuệ giác sẽ đến nhanh.”

Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng nói: “Hơi thở là cầu nối giữa thân và tâm”, tập trung vào hơi thở sẽ dễ dàng giúp cho thân và tâm hòa vào làm một. Hơi thở có ý thức khác hẳn với hơi thở vô thức mà thường chúng ta hay thở. Hơi thở thông thường sẽ không đẩy hết toàn bộ khí trong phổi, và luôn bị tồn đọng trong phổi, trong đó có rất nhiều chất độc cũng tồn động theo và rất không tốt cho cơ thể. Hơi thở có ý thức và đều đặn thường giúp hơi thở được dài hơn, sâu hơn, vì vậy cũng đẩy được gần như toàn bộ khí trong phổi ra khỏi cơ thể, vì thế chất độc cũng được đẩy hầu hết ra khỏi cơ thể (tất nhiên chất độc cũng được đẩy ra khỏi cơ thể qua các con đường khác như mồ hôi, tiểu tiện…).

Tóm lại, thiền tập một cách đơn giản nhất chính là sự tập trung. Chúng ta có thể thực hành trong mọi công việc hàng ngày: Làm việc gì thì chỉ tập trung vào việc đó, không được đang làm việc này mà đầu óc lại nghĩ sang việc khác, muốn tập trung được thì cần chọn việc đúng mà chúng ta yêu thích, khi đó sẽ dễ dàng để ta tập trung vào việc đó.

Ứng dụng vào thiền hành (đi bộ thiền)
Hình: sưu tầm từ internet

Đi bộ thiền hay thiền hành chính là việc tập trung hoàn toàn tâm trí vào bước đi. Nhưng vì sao lại là thiền đi bộ mà không phải là thiền chạy. Đơn giản bởi vì khi chạy thì chân, tay, cơ thể, mắt… đều phải hoạt động rất nhanh, do đó sẽ cần rất nhiều nhiều năng lượng cùng một lúc, khi đó hơi thở buộc phải gấp gáp hơn, cơ thể cũng sẽ nhanh mệt hơn, và trí não cũng sẽ bị phân tâm nhiều hơn. Còn khi đi bộ, cơ thể hoạt động nhẹ nhàng với tốc độ chậm, trí não dễ dàng tập trung vào từng bước đi, hơi thở cũng dễ dàng duy trì đều đặn, thở dài và sâu hơn. Tốt hơn nữa là chúng ta nên tạm thời đóng hết các cơ quan giác quan khác lại, có thể dùng tai nghe để nghe nhạc thiền, hoặc loại nhạc nhẹ nhàng để tai gần như không bị phân tâm bởi tạp âm bên ngoài. Mắt thì tập trung vào phía trước, hoặc nếu điều kiện cho phép (đường đi vắng người và không có chướng ngại vật…), chúng ta có thể nhắm mắt nhẹ và đi, lâu lâu lại mở mắt để quan sát đường rồi lại nhắm trở lại để tập trung hơn. Còn nếu điều kiện không cho phép thì có thể để tai, mắt vào việc cảm nhận âm thanh, hình ảnh của thiên nhiên. Áp dụng triệt để với các giác quan khác để nhằm giúp ta tập trung suy nghĩ vào bước đi một cách tối đa. Lúc này có thể dành tâm trí vào việc đếm từng bước chân so với từng nhịp thở. Đặc biệt nên cảm nhận sự phồng xẹp của phần bụng dưới theo từng hơi thở, đây là khu vực nằm xa bộ não, nơi rất dễ di chuyển, dao động, còn phần bụng dưới rất ít di chuyển nên rất vững chãi, vì vậy cũng giúp dễ tập trung tâm trí của ta. Bước đi trong trạng thái như vậy, ta sẽ cảm thấy thật sự êm dịu, nhẹ nhàng và sảng khoái trong tâm trí. Cơ thể được thư giãn và rất dễ chịu. Tập quen dần thì ta có thể áp dụng bước thiền quán như Thiền sư Thích Nhất Hạnh nói ở trên, đó là tập trung suy nghĩ về những vấn đề đang diễn ra quanh ta, nhìn nhận sâu hơn vào chúng, thấu hiểu nó, để từ đó dễ dàng hơn trong việc tìm ra giải pháp để giải quyết chúng. Với cách thiền hành như vậy, cơ thể cũng không cảm thấy sự mệt mỏi, vì vậy, chúng ta có thể đi miệt mài mà không thấy mệt, và cứ muốn đi mãi không dừng.

Một điều cần chú ý nữa là, như Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng nói, sẽ rất cần thiết có những tăng thân đi cùng trên con đường tu tập. Khi thiền hành nói riêng, hay thiền nói chung, nếu có được những người bạn đồng hành sẽ là điều tuyệt vời. Bởi nó sẽ giúp ta có thêm động lực, tăng thêm niềm vui, từ đó thêm yêu thích khi luyện tập, để có thể luyện tập một cách bền bỉ, liên tục, lâu dài, và chính là áp dụng theo quy tắc upward spiral đã nói ở trên. Điều đó, sẽ giúp chúng ta đạt được thành công trên con đường thiền tập một cách dễ dàng hơn rất nhiều.
Điều quan trọng của luyện tập là tạo được thói quen và duy trì liên tục

Với riêng người viết cũng vậy, luôn có con gái là người bạn đồng hành trên mỗi chặng đường. Nhờ quá trình luyện tập này, con gái đã học được rất nhiều môn thể dục khác nhau với những thành tích vượt xa kỳ vọng, cũng như vượt xa mức trung bình của những trẻ khác, và đó cũng là động lực cho ba thực hiện thiền hành một cách bền bỉ, đều đặn và đạt được những thành công nho nhỏ trên con đường thiền tập.

Chủ Nhật, 7 tháng 10, 2018

Mỹ đã, đang và sẽ làm gì để đối phó với Trung Quốc?

Chính quyền của TT. Trump mới đây nhất đã ban hành những chính sách mà đối tượng chịu tác động lại là du học sinh Trung Quốc (TQ) đang có mặt tại Mỹ là bởi vì sao?


Nguồn: Internet
Du học sinh hay các nhóm khác như doanh nghiệp TQ đầu tư vào Mỹ, nhóm tin tặc TQ (sống ở khắp nơi trên thế giới nhưng tập trung chủ yếu tại TQ và một phần tại Mỹ), thậm chí du khách TQ được chính quyền TT Trump coi là một dạng gián điệp của TQ. Để đề phòng gián điệp TQ thì Mỹ sẽ thực hiện các giải pháp nhằm hạn chế và kiểm soát các nhóm này trong đó có nhóm du học sinh. Trường hợp xác định được là gián điệp thì đối tượng sẽ bị trừng phạt một cách cứng rắn.

Các chính sách khác mà chính quyền của TT. Trump đã, đang và sẽ thực hiện nhằm đối phó với “nhà nước thực dân kiểu mới TQ” gồm có:

1. Vấn đề thương mại
- Thông qua các đạo luật về thương mại tự do và công bằng với Mỹ và tất nhiên đối tượng bị áp dụng chủ yếu sẽ là TQ hay những quốc gia có chính sách tương tự TQ, bởi thực tế hiện nay trường phái ủng hộ tự do thương mại, cổ vũ tự do thương mại với TQ nhưng họ cố tình bỏ qua vấn đề công bằng trong thương mại.
- Kiểm soát chặt chẽ xuất xứ hàng hóa ngay cả với những thương hiệu lớn của thế giới nhưng sản xuất tại TQ nhằm hạn chế thâm hụt thương mại với TQ.
- Tăng cường kiểm soát chất lượng và tăng hình phạt đối với hàng hóa kém chất lượng mang danh giá rẻ của TQ.
- Tăng cường kiểm soát với các loại hàng hóa, các doanh nghiệp kinh doanh nhưng gây ra hủy hoại môi trường, lạm dụng lao động trẻ em, lao động phụ nữ hay lớn hơn là các doanh nghiệp mà vấn đề công đoàn lao động không được bảo đảm.
- Cấm các doanh nghiệp nhà nước hoặc được hẫu thuẫn bởi nhà nước TQ mua các công ty tư nhân.
- Giảm đầu tư vào TQ và chuyển qua các thị trường khác.
- Chặn đứng việc bắt buộc chuyển giao công nghệ và ăn cắp thành quả nghiên cứu của Mỹ (khi đầu tư vào TQ).
- Rút khỏi các hiệp định thương mại, các thỏa thuận trước đây, các tổ chức quốc tế (bởi vai trò “giả tạo” của nó trong khi Mỹ phải tốn nhiều nguồn lực để “nuôi dưỡng” các tổ chức này) sau đó sẽ đàm phán lại với từng trường hợp cụ thể. Chặn đứng việc TQ lạm dụng quyền phủ quyết tại Liên Hiệp Quốc để dung túng (qua việc mua bán quyền phủ quyết) các chế độ độc tài.


Nguồn: Internet
- Giải quyết thao túng tiền tệ (thao túng tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu của chính quyền TQ) bằng cách áp đặt các loại thuế phòng vệ để đưa đồng nhân dân tệ lên giá trị hợp lý.
- Đối phó với chính sách của TQ về kiểm duyệt, hạn chế sở hữu, hạn chế đầu tư trong lĩnh vực giải trí, truyền thông, và Internet và ngầm hỗ trợ cho hoạt động ăn cắp bản quyền tại TQ, Mỹ sẽ có thể thông qua đạo luật ngăn cản bất kỳ công ty truyền thông và Internet nào của TQ tham gia vào việc kiểm duyệt được niêm yết và huy động vốn từ thị trường chứng khoán Mỹ.

2. Quốc phòng an ninh
- Ngăn chặn và xử lý vấn đề gián điệp (như đã nói ở trên) bằng cách kiểm soát chặt chẽ những cá nhân có yếu tố TQ vào Mỹ, hạn chế thậm chí cấm nhập cảnh vào Mỹ đối với những đối tượng này, phong tỏa tài khoản những quan chức TQ dính líu tham nhũng đang ẩn náu dưới nhiều hình thức tại Mỹ.
- Tránh rơi vào cuộc chạy đua vũ trang không cần thiết đặc biệt phải đối phó với một quốc gia có nền tảng cực lớn về nguồn lực như TQ (bài học rút ra từ sự thất bại của Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh lạnh trước Mỹ), bởi nếu bị cuốn theo làn sóng này rất có thể ngân khố Mỹ sẽ luôn bị thiếu hụt và mất đi sự độc lập, nguy hiểm hơn là tiếp tục phụ thuộc vào việc tài trợ thông qua bán trái phiếu kho bạc cho TQ.
- Xử lý vấn đề về phá hủy, gây nhiễu loạn hệ thống thông tin vũ trụ, không gian, trạm GPS…
- Ngăn chặn và xử lý với các vấn đề về không gian như khai thác tài nguyên, khẳng định quyền sở hữu trong không gian, vũ trụ trước khi TQ kịp làm điều đó. Vấn đề liên quan vũ trụ, không gian cũng sẽ là ưu tiên để Mỹ tập trung cho tương lai.

3. Truyền thông, thông tin, hỗ trợ cho người dân TQ
- Với nền tảng độc tài toàn trị thì chính nhân dân TQ lại thường là “kẻ thù” của nhà nước TQ, họ bị kiểm soát, kiểm duyệt, hạn chế tiếp xúc với thế giới bên ngoài ngay cả qua internet. Vì vậy, trao cho họ khả năng tiếp cận thông tin để họ tự ý thức được quyền của mình (nhân quyền) từ đó yêu cầu chính quyền TQ tuân thủ các luật chơi của các quốc gia dân chủ văn minh.
- Hạn chế buôn bán các công cụ kiểm duyệt (internet) cho nhà nước TQ, truyền thông thông tin từ thế giới bên ngoài qua các công cụ truyền thông của Mỹ cho người dân TQ.

=> Giải pháp cho vấn đề này chính là dùng người dân TQ để chống lại nhà nước độc tài toàn trị TQ, và cũng để giúp TQ tiến đến một nhà nước văn minh hơn.

4. Tổng mặt trận nói chung
Tách các quốc gia khác ra khỏi sự vây hãm theo kiểu chủ nghĩa thực dân kiểu mới của TQ. Kêu gọi đồng minh và cả thế giới cùng hướng mục tiêu cô lập TQ, buộc TQ phải tham gia trò chơi theo nguyên tắc tự do nhưng phải công bằng cả trong lĩnh vực thương mại và các lĩnh vực khác.

Kết lại: Chúng ta thấy rằng những giải pháp đưa ra của Mỹ trước TQ thì không chỉ đơn thuần ở góc độ kinh tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, một quốc gia không thể tách biệt hoàn toàn với thế giới, nhất là với những quốc gia chiếm giữ vị trí quan trọng trong bất kể lĩnh vực gì, thì khi bàn về vấn đề kinh tế hay bất kể lĩnh vực nào khác mà không hiểu, hay cố tình bỏ qua vấn đề chính trị toàn cầu thì sẽ luôn là thiếu sót, bởi chính trị và kinh tế luôn đi cùng nhau và chi phối lẫn nhau. Vì vậy, những chính sách hiện nay của TT Trump phải được nhìn nhận dưới nhiều góc độ, nên khi triển khai phải thực hiện tổng lực trên các mặt trận này, hay mọi mũi giáp công của Mỹ đều hướng đến TQ bởi sự nguy hiểm của chủ nghĩa thực dân kiểu mới của TQ đang làm lũng đoạn cả thế giới. Tất nhiên khi triển khai thì mọi mánh lới (kể cả kiểu thuyết âm mưu) đều có thể được sử dụng, và với bản lĩnh của một doanh nhân lão luyện, kỹ năng đàm phán đã được tôi luyện trong suốt cuộc đời kinh doanh của mình thì TT. Trump sẽ gây ra vô số khó khăn cho TQ.

Bốn nhóm giải pháp đã nêu trên đây là tóm tắt một số quan điểm chính tại tác phẩm “Chết bởi tay TQ” của Giám đốc Hội đồng Thương mại Quốc gia Nhà trắng – Peter Navarro. Đây là một cuốn sách rất nên đọc để có thể hiểu và dự đoán phần nào về diễn biến tình hình thế giới hiện nay nhất là mối quan hệ giữa hai siêu cường Mỹ - Trung.

Chủ Nhật, 8 tháng 7, 2018

Chủ quyền quốc gia và quyền được sống của mỗi con người

(Hình: sưu tầm từ internet)

Triết gia Montesquieu đã nói trong tác phẩm "Tinh thần pháp luật" rằng đời sống của các quốc gia cũng tương tự như đời sống của con người. Mỗi người có quyền chống lại kẻ tấn công mình (thậm chí giết chết kẻ thù) nhằm tự bảo vệ lấy tính mạng của mình, trường hợp này, luật pháp coi đó là quyền tự vệ chính đáng, bởi quyền được sống là một quyền cơ bản nhất của con người (nhân quyền). Tương tự như vậy, mỗi quốc gia có quyền tiến hành chiến tranh khi cần phải tự vệ để tránh thảm họa bị diệt vong.

Ở các quốc gia có hệ thống pháp luật nghiêm minh, sự can thiệt của hệ thống pháp luật là kịp thời, thì quyền tự vệ tự nhiên giữa các công dân không nhất thiết gồm việc tấn công kẻ khác. Khi người dân bị tấn công thì họ chỉ cần kiện ra tòa án để nhờ can thiệp nhằm bảo vệ quyền lợi của mình; nhưng trong trường hợp nếu chờ đến sự can thiệp của pháp luật thì đã nguy đến tính mạng, thì người dân được quyền tấn công để tự vệ. Tương tự, khi một dân tộc thấy rằng nếu cứ để yên lâu dài thì đối phương sẽ tiêu diệt mình; lúc đó tấn công là biện pháp duy nhất để giữ cho dân tộc khỏi bị tiêu diệt. Do đó các nước nhỏ thường có quyền tiến hành chiến tranh nhiều hơn là các nước lớn, vì nước nhỏ thường hay bị tấn công và sợ bị tiêu diệt. Điều này cũng giải thích vì sao ở các quốc gia có hệ thống pháp luật kém nghiêm minh, sự can thiệp của hệ thống nhà nước để bảo vệ quyền lợi của công dân chậm chạp, thì người dân thường ưa sử dụng bạo lực để hành xử. Chỉ cần một mâu thuẫn nhỏ phát sinh là mỗi người sẵn sàng sử dụng vũ lực để chống lại đối phương nhằm tự vệ cho chính mình.

Đó là nguyên lý về quyền tự vệ chính đáng, hay quyền phát động chiến tranh ở phạm vi quốc gia, nó phát sinh từ tính tất yếu và từ lẽ công bằng cứng rắn. Hệ thống luật pháp của các quốc gia mà không nắm vững điều này thì sẽ mất hết.

Trong mối quan hệ giữa các quốc gia, thì cần hiểu rằng độc lập chủ quyền của một quốc gia là tối thượng. Không một quốc gia nào dù lớn mạnh đến đâu và nhân danh bất cứ điều gì có quyền xâm phạm độc lập, chủ quyền của các quốc gia khác, bởi nó cũng giống như quyền được sống của mỗi con người.

Thứ Tư, 20 tháng 6, 2018

Chủ nghĩa cá nhân trong một quốc gia thịnh vượng

(hình: sưu tầm từ internet)


Bản chất con người là vì mình. Đó là sự thật không thể phủ nhận. Dù nói bất kỳ điều gì, thể hiện như thế nào trước công chúng, thì ẩn đằng sau những lời nói đó là nhằm mang lại lợi ích cho chính mình. Người giỏi thì tính mục tiêu lâu dài, người yếu thì tính mục tiêu ngắn hạn, hoặc nếu hoàn cảnh nhiều rủi ro thì dù giỏi cũng buộc phải tính ngắn hạn. Mục tiêu vì mình không nhất thiết phải là tiền bạc, mà còn nhiều mục tiêu lớn khác với con người là quyền lực, danh vọng... hay thậm chí mục tiêu tiền bạc cũng là mục tiêu sâu xa, ẩn đằng sau mục tiêu quyền lực và danh vọng.

Một xã hội tốt đẹp là phải giúp cho mỗi người dân luôn nỗ lực sáng tạo để làm lợi cho mỗi cá nhân nhưng đồng thời không được gây tổn hại đến lợi ích của người khác, tốt hơn nữa là làm lợi cho mình và làm lợi cho cả xã hội nói chung.

Những người theo chủ nghĩa vị lợi cực đoan, họ thường nghĩ rằng, mỗi con người, mỗi gia đình là một tế bào của xã hội, do đó, mỗi người cứ cố gắng sống cho mình tốt lên là xã hội sẽ tốt lên, đó là một quan niệm hết sức sai lầm. Ví dụ đơn giản như khi tiến hành xây dựng một tòa nhà cao tầng, hiện đại ngay giữa trung tâm của một đô thị cổ nhưng rất đông đúc, chật hẹp. Khi đánh giá về góc độ tài chính của dự án tòa nhà thì rất khả thi, mang lại nguồn lợi tài chính lớn cho chủ đầu tư. Tuy nhiên, tòa nhà được xây lên sẽ phá nát quy hoạch, quang cảnh chung của toàn bộ đô thị cổ, mất đi giá trị cổ kính vốn có của đô thị này. Những vấn đề khác như gây nên tình trạng quá tải lượng dân cư sống, dẫn đến kẹt xe, ngập lụt, an ninh phức tạp… tạo ra tổn thất phúc lợi xã hội rất lớn. Nếu buộc phải dùng nguồn lợi tài chính mà tòa nhà mang lại để bù đắp những tổn thất xã hội đó thì dự án hoàn toàn mất đi tính khả thi. Nghĩa là nếu cứ để mọi tổ chức, cá nhân hành động vì lợi ích của mình thì dễ gây ra tổn thất chung cho những tổ chức, cá nhân khác. Như nhà tư tưởng, người được ví như bậc khai quốc công thần thời Minh Trị Nhật Bản – Fukuzawa Yukichi – cũng nói rằng: "Một người sinh ra chỉ nghĩ đến sinh nhai và làm lụng để nuôi gia đình thì đó là bình thường, không có gì xấu hổ nhưng vạn người, triệu người đều thế thì hỏng."

Vậy mỗi người sẽ dựa vào đâu để nhìn nhận, đánh giá vấn đề và ra quyết định hành động nhằm mang lại lợi ích cho mình, đồng thời cũng làm cho xã hội được tốt lên?

Nếu một người may mắn được tiếp nhận những triết lý uyên thâm, nguyên bản của một trong những trường phái tôn giáo lớn ngày nay như Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo,… thì họ sẽ có cơ sở tốt hơn để ra quyết định. Tuy nhiên, các triết lý của các tôn giáo thường trừu tượng, ngôn từ cũng chưa thật sự gần gũi, chưa thật sự ngắn gọn, thậm chí còn bị bóp méo vì các mục đích không trong sáng, lại kết hợp thêm những yếu tố huyền ảo mang đậm màu sắc tâm linh, khiến cho những triết lý của các tôn giáo trở nên xa rời cuộc sống, thiếu đi tính thực tại, làm mất đi tính sâu sắc, uyên thâm của các triết lý tôn giáo.

Vì vậy, đơn giản hơn chúng ta có thể tham khảo những triết lý từ các trường phái triết học, với từ ngữ thường ngắn gọn, dễ hiểu và dễ truyền đạt hơn. Chúng ta hãy cùng tham khảo quan điểm của Giáo sư triết học của Đại học Harvard - Michael J. Sandel mà ông đề cập trong tác phẩm "Phải Trái Đúng Sai" của mình về cách đánh giá, phán xét một vấn đề. Theo đó, có ba cơ sở hay phương pháp đánh giá nhằm tiếp cận công lý là: i) Tôn trọng quyền tự do cá nhân (Con người được quyền tự do làm điều mình thích nhưng không được phạm vào tự do của người khác, đồng thời cũng không phải làm điều mình không thích); ii) Tối đa phúc lợi (mang lại lợi ích cho nhiều người nhất hay tổng lợi ích xã hội là dương); và iii) Đạo đức và lối sống tốt đẹp (không được phạm vào nguyên tắc đạo đức của xã hội, đồng thời khuyến khích những hành động cao cả). Hành động nào không đáp ứng được cả ba tiêu chí này thì đều cần phải xem xét kỹ càng, còn nếu nó đáp ứng được cả ba thì nó là đúng đắn, và mọi người hay xã hội cần cổ vũ, khuyến khích, hỗ trợ hay hợp tác để cho hành động đó được thực thi.

Quan điểm này cũng cho thấy, phúc lợi chỉ là một trong ba tiêu chí để phán xét một vấn đề. Hơn nữa, tổng phúc lợi xã hội là một tiêu chí phức tạp để đánh giá. Điều quan trọng là phải nhìn nhận phúc lợi ở mọi góc nhìn của các chủ thể chịu tác động của hành động đó, chứ không chỉ ở người ra quyết định hành động. Mà muốn có đủ góc nhìn thì lại đòi hỏi yêu cầu về tính tự do đưa ra các quan điểm của mình, nó thuộc về phạm vi của từ “tự do” mà tiêu chí thứ nhất đã nói. Tiếp theo là quan điểm về đạo đức. Nó là một khái niệm động, cùng một hành động đó có thể lúc này là hợp đạo đức, nhưng khi quan điểm xã hội thay đổi thì không còn hợp đạo đức nữa. Hay ở khu vực này thì hành động đó là đạo đức, ở khu vực khác lại là không có đạo đức. Ví dụ đơn giản như quan điểm về mại dâm, sòng bạc dưới góc nhìn đạo đức vẫn chưa thể hoàn toàn thống nhất, nó tùy thuộc mỗi nơi, mỗi thời điểm, mỗi con người… Và tương tự như trên, quan điểm về đạo đức cũng cần có được sự tự do biểu đạt góc nhìn của mỗi người về tính đạo đức của hành động. Điều này cũng cho thấy tự do là vô cùng quan trọng trong việc phán xét vấn đề.

Như vậy, phải-trái, đúng-sai không phải lúc nào cũng có thể phán xét một cách rõ ràng, phân minh. Nó tùy thuộc vào hoàn cảnh, quan điểm, cách nhìn nhận sự việc của mỗi người, cái được hình thành từ quá trình trưởng thành của người đó. Thậm chí với chính người đó thì lúc này là đúng mà khi nhận thức của anh ta thay đổi thì lại là sai… Bất đồng quan điểm là tất yếu của xã hội, nhưng vấn đề xã hội cần phải được nhìn nhận dưới con mắt phản biện, tranh luận dựa trên căn cứ khoa học ở mọi góc nhìn khác nhau. Cứ đưa mọi vấn đề ra ánh sáng, để chiếu rọi mọi góc tối của vấn đề, có như vậy mới nâng cao tri thức và đạo đức con người, khi đó công lý mới được thực thi và đó cũng chính là đặc trưng của một xã hội văn minh.

Bây giờ chúng ta nhìn nhận thêm về hiện trạng xã hội hiện nay.

Trong tình trạng xã hội mà mọi người đều cùng quẫn theo vòng xoáy của tiền bạc (do truyền thông tạo ra tâm lý có tiền là có tất cả), trong đầu người dân chỉ quanh quẩn chữ "tiền", nó khiến cho ngay cả những người được gọi là chuyên gia kinh tế cũng chỉ nhìn nhận mọi vấn đề trong cuộc sống dưới góc độ lợi ích về tài chính, tiền tệ. Hoặc thậm chí họ có khả năng biết được những tổn hại ở các góc độ khác, nhưng để thuyết phục được công chúng với "con mắt chỉ hau háu nhắm đến tiền" thì đó là cách dễ dàng lôi kéo, dẫn dụ được công chúng. Đúng hơn đó là chủ nghĩa dân túy, biết đánh vào cái người ta đang nhắm tới.

Như trên đã bàn về bản chất con người là vì mình như tiền bạc, danh vọng, quyền lực... Nhưng những thứ đó về sâu xa hơn là nhằm có được cuộc sống tự do, hạnh phúc trong đó phải đảm bảo ba yếu tố mà siêu triết gia Aristotle đã nói bao gồm: đời sống vật chất, đời sống tinh thần và đời sống thể chất (hay sức khỏe). Một gia đình tốt là đảm bảo được ba yếu tố này bằng nghệ thuật quản trị gia đình. Tiền bạc chỉ là một trong nhiều phương tiện để mang lại đời sống tinh thần cũng như đời sống vật chất và thể chất của mỗi người, mỗi gia đình. Vì vậy, nghệ thật tích lũy tiền bạc, nghệ thuật làm giàu hay đích đến của nó là tích lũy tài sản cũng chỉ là công cụ phục vụ cho nghệ thuật quản trị gia đình nhằm có được đời sống hạnh phúc, nên nó kém quan trọng hơn nghệ thuật quản trị gia đình. Khi nghệ thuật tích lũy tài sản để có cuộc sống hạnh phúc còn là phương tiện, thì nó có giới hạn. Nhưng rất nhiều người không hiểu thấu được nó, họ cho rằng có tiền là có tất cả và lúc đó họ cũng không còn thấy vai trò quan trọng của nghệ thuật quản trị gia đình. Họ biến tích lũy tài sản thành mục tiêu của đời người. Vì vậy, nó trở thành không giới hạn, đồng thời họ cũng đề cao tiền bạc, và sẵn sàng chà đạp lên các giá trị khác để có tiền bạc.

Ở góc độ lớn hơn là một quốc gia, thì một quốc gia tốt cũng phải đảm bảo mang lại ba yếu tố trên cho người dân của quốc gia đó, để họ có được cuộc sống hạnh phúc. Và cũng tương tự như đối với một cá nhân hay một gia đình, thì nghệ thuật quản trị quốc gia quan trọng hơn mục tiêu giàu có thuần túy của một quốc gia. Vì vậy mà xưa kia chưa có các nhà kinh tế, thì rất nhiều quốc gia đã từng phát triển thịnh vượng, người dân sống văn minh, hạnh phúc. Để có được điều đó, các triết gia vĩ đại nhấn mạnh vào "triết lý trị quốc" hay cai trị (governance), ở đó quyền lực phải được kiểm soát (theo nguyên lý cân bằng, đối trọng, kiểm soát, ràng buộc lẫn nhau - Checks and Balances). Khi đó, không một cá nhân nào, nhóm người nào có khả năng chi phối, nắm trọn quyền lực để áp đặt mong muốn của mình lên toàn bộ các nhóm yếu thế còn lại. Khi đó cũng không có tình trạng tôn sùng cá nhân, mong chờ vào cá nhân lãnh đạo mang lại đời sống hạnh phúc cho mọi công dân, mà sự thịnh vượng của quốc gia phải do sự đóng góp của toàn bộ người dân, cũng như vì công dân của quốc gia đó. Và khi quyền lực luôn bị kiểm soát trong một quốc gia tốt đẹp thì theo triết gia vĩ đại Plato - người thầy khả kính của triết gia Aristotle - đã nói: con người buộc phải sống công bình, chính trực bởi chỉ có cách đó mới mang lại lợi ích cho họ; nếu không hành xử công bình, chính trực thì họ luôn bị trừng phạt (ngay tức khắc chứ không phải chờ vào kiếp sau), làm cho tổn thất phải nhận lớn hơn nhiều so với lợi ích có thể có được khi làm điều xấu xa. Còn với triết gia vĩ đại thời kỳ khai sáng Rousseau – một trong những người được coi là cha đẻ của nền dân chủ hiện đại ngày nay, người cũng được mệnh danh là "người thầy của nhân loại" cũng đã nói về tình trạng một quốc gia rằng: “Hạnh phúc thay những dân tộc ở đó người ta có thể tốt mà không cần cố gắng và công minh chính trực mà không cần đức tính! Nếu có một quốc gia khốn khổ nào trên thế gian ở đó mỗi kẻ không thể sống được nếu không làm điều ác và ở đó các công dân đều gian manh vì bất đắc dĩ, thì cần treo cổ không phải kẻ bất lương, mà kẻ buộc hắn phải trở thành kẻ bất lương.


Vì vậy, với bộ máy nhà nước, nếu muốn đất nước phát triển thịnh vượng, người dân sống văn minh, mọi người đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc thì nhất thiết phải đảm bảo duy trì được nền tảng pháp quyền mạnh mẽ. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không ai có quyền chà đạp hay "ngồi xổm" lên pháp luật. Nhà nước cần bảo vệ được quyền lợi dưới góc nhìn đa chiều cho mọi công dân, dù là nhóm người yếu thế nhất.

Muốn nhà nước hành động theo phương châm đó, nghĩa là quyền lực được kiểm soát, thì không còn cách nào khác là tất cả mọi người dân đều phải ý thức được trách nhiệm của mình là phải "cất lên tiếng nói" để tránh cho người nắm quyền lực có thể làm sai dẫn đến tổn hại lợi ích của mình hay nhóm người như mình. Xã hội muốn phát triển thịnh vượng thì mọi quyết định không thể dựa vào đa số đám đông biểu quyết. Cần hiểu rằng những người yếu thế, yếu về quyền lực, yếu về tiền bạc và yếu về rất nhiều mặt khác nữa, nhưng đặc biệt quan trọng là yếu về mặt tri thức. Trong khi họ lại chiếm số đông trong xã hội, nếu biểu quyết dựa trên số đông như vậy, các quyết định thường thiếu đi tính chính xác do tính chất độc tài của đám đông. Đám đông khi đó thường bị những kẻ “dân túy” lợi dụng, dẫn dụ nhằm đạt mục đích của kẻ dân túy. Đó cũng chính là nhược điểm của các nền tảng xã hội dân chủ cổ đại xa xưa ở phương Tây mắc phải. Nguyên tắc áp dụng đa số của đám đông chỉ thực hiện trong bối cảnh chiến tranh, loạn lạc mà thôi. Vì vậy, trong một nền cộng hòa thì mọi nhóm người dù là yếu thế nhất cũng cần phải có đại diện của mình, với cam kết đưa ra tiếng nói cho họ và bảo vệ quyền lợi cho họ. Kẻ đại diện nào không thực hiện được nhiệm vụ đó thì phải được thay thế. Vấn đề này dẫn đến vai trò quan trọng của những người có hiểu biết, có phẩm chất để làm đại diện cho mỗi nhóm người trong xã hội. Nghĩa là nó nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của giới "trí thức" (đúng nghĩa), khi có khả năng nhìn nhận được vấn đề thì cần hỗ trợ bảo vệ quyền lợi của mọi nhóm người khác nhau trong xã hội, nhất là với những người yếu thế, thì trí thức càng cần thiết phải bảo vệ họ, làm người đại diện cho họ, giúp họ "cất lên tiếng nói" của mình, đảm bảo cho mọi góc nhìn khác nhau theo đúng phương châm của từ tự do như đã nói ở trên đều phải được "phơi ra ánh sáng", hay cụ thể hơn đó chính là giúp cho sự thật được phơi bày và công lý được thực thi. Bởi vì sự thật hay chân lý cũng chính là tôn chỉ cho mọi hành động hay mục tiêu tối cao mà người mang danh trí thức cần hướng tới.

Kết lại, bản chất của con người là vì mình, và con người luôn đấu tranh để bảo vệ lợi ích của mình, nhưng cần thiết phải đảm bảo được ba điều kiện gồm tự do, phúc lợi và đạo đức. Trong đó tự do là điều kiện vô cùng quan trọng để mang lại hạnh phúc cho mỗi người (hay mục đích vì mình), đồng thời cũng mang lại hạnh phúc cho toàn xã hội (mọi quan điểm đều được nêu ra và được bảo vệ), như vậy mới tạo ra sự thịnh vượng cho một quốc gia.

Thứ Ba, 15 tháng 5, 2018

Giáo dục tốt nhất_Best Education


Vai trò của tri thức đối với con người

Đầu tiên, để có được nền giáo dục tốt nhất, nền giáo dục đích thực thì cần khẳng định vai trò quan trọng của tri thức, của hiểu biết đối với cuộc đời một con người.

Suốt lịch sử nhân loại, các Ông tổ tôn giáo, các vị Cha đẻ của các trường phái triết học, các vĩ nhân xưa… như Đức Phật, Sokrates, Plato, Đức Chúa… thậm chí còn trước đó nhiều hơn nữa, tất cả đều khẳng định rằng mục đích cuối cùng của con người là tự do (lưu ý cần theo đúng nghĩa của từ tự do), là hạnh phúc. Trong đó, tri thức, hiểu biết đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự tự do, niềm hạnh phúc của cuộc đời con người. Như Triết gia vĩ đại Plato đã chứng minh tại tác phẩm kinh điển “Cộng hòa” của mình thì chỉ có con người đam mê hiểu biết là có cơ hội được hưởng niềm hạnh phúc viên mãn nhất. Bởi hiểu biết sẽ giúp con người được hưởng niềm hạnh phúc xuất phát từ trong sâu thẳm tâm hồn. Nó giúp cho con người được hưởng niềm hạnh phúc một cách nhẹ nhàng, êm ái, thư thái nhưng sâu lắng, ngây ngất và rất lâu bền. Cách đó cũng giúp con người luôn được cân bằng, nên cách tận hưởng hạnh phúc này rất khác và ở đẳng cấp cao hơn rất nhiều với những người đam mê tiền bạc, danh vọng, quyền lực... họ thường tận hưởng hạnh phúc bằng cách thỏa mãn các giác quan vật lý (vị giác, thị giác, thính giác, khứu giác, xúc giác), bằng những thú vui xác thịt, những chất kích thích, nhằm đạt được sự thỏa mãn tột cùng nhưng không sâu lắng và không lâu bền, tâm trí nhanh chóng trở lại vòng xoáy chạy theo các nhu cầu, dục vọng mà chính trí tưởng tượng của họ tạo ra. Và hơn thế nữa, khi có tri thức, hiểu biết, người đó cũng được trải nghiệm cảm giác hạnh phúc đến từ danh vọng, quyền lực và thậm chí cả tiền bạc. Khi có nhiều hiểu biết chắc chắn người đó cũng có những danh vọng và nó đến một cách tự nhiên, tiền bạc cũng sẽ đến với họ một cách tự nhiên; đồng thời, họ cũng có quyền lực đối với người khác, đó là thứ “quyền lực mềm” khiến cho người khác tự nguyện làm theo chứ không bị cảm giác ép buộc nào. Vì vậy người có nhiều hiểu biết sẽ có nhiều kinh nghiệm nhất trong việc trải nghiệm các cảm giác hạnh phúc mang lại từ đủ các nguồn khác nhau trong cuộc sống.

Trong giáo lý Phật giáo của Đức Phật, thì Người cũng khẳng định rằng bản chất “đời là bể khổ”, và nguồn gốc của khổ đau chính là sự “vô minh” (hay sự không hiểu biết), muốn thoát khổ thì con người phải đi tìm hiểu biết nhằm xóa tan sự vô minh trong tâm hồn của mình. Và tri thức, hiểu biết như là biểu hiện của tâm hồn con người; tri thức, hiểu biết sẽ được truyền lại hết đời này qua đời khác, vì vậy nó là bất tử. Điều này nghĩa là, thể xác con người thì có thể chết đi, không ai có thể thoát khỏi vòng luân hồi, sinh lão bệnh tử, nhưng chúng ta có thể nói rằng tâm hồn con người (đại diện là tri thức, hiểu biết của người đó) sẽ trở thành bất tử.

Sau khi đã hiểu về sự quan trọng của tri thức, hiểu biết chúng ta cần làm rõ triết lý của giáo dục.

Triết lý giáo dục

Như triết gia vĩ đại Plato đã nói: “Giáo dục không phải chỉ nhồi nhét hiểu biết vào đầu óc, mà là dẫn dắt con mắt của tâm trí hướng về đối tượng chính đáng, thiếu nhi phải giáo dục như vui chơi, không gò ép, áp đặt”. Ông cho rằng “Giáo dục phải trù tính phương pháp làm thế nào tâm trí có thể xoay quanh hết sức dễ dàng và hữu hiệu. Giáo dục không phải nghệ thuật đưa thị giác vào tâm trí, mà phải tiến hành từ ý thức tâm trí đã sở đắc khả năng đó (đã suy nghĩ và tìm hiểu về nó), song xoay không đúng cách hoặc nhìn không đúng chỗ. Đó là việc giáo dục phải giải quyết”. Người dạy đóng vai trò là một vị huấn luyện viên, không thuần túy là truyền đạt kiến thức, mà quan trọng hơn là gợi mở con đường, định hướng, trang bị phương pháp, khuyến khích, tạo động lực, truyền cảm hứng cho người học tự tìm hiểu điều mà họ muốn biết. Nhà văn, nhà thơ nổi tiếng Louis L'Amour (ông cũng có thể được coi là nhà giáo dục học, mặc dù ông bỏ học, rời trường lớp ở tuổi 15, nhưng ông đã làm rất nhiều loại hình công việc khác nhau và đặc biệt là khả năng đọc sách siêu phàm – trên 100 cuốn sách/năm, sau đó ông trở thành nhà văn, nhà thơ nổi tiếng) cho rằng: “Món quà vĩ đại nhất, tuyệt vời nhất mà một người có thể dành cho người khác đó là sự đam mê, sự khát khao hiểu biết”.

Giáo dục nên bắt đầu từ sớm, càng sớm càng tốt, với trẻ em thì cần cho chúng được trải nghiệm thật nhiều, ngay cả những trải nghiệm nguy hiểm. Triết gia vĩ đại thời kỳ khai sáng Rouseau – người được mệnh danh là người thầy của nhân loại cũng khẳng định quan điểm này, đồng thời ông chủ trương giáo dục con người thuận theo tự nhiên, giáo dục dựa trên những gì phát sinh trong thực tế. Sau đó, triết gia John Deway là người kết hợp những tư tưởng của Plato và Rouseau để đưa ra phương pháp giáo dục thực nghiệm nhằm phù hợp với thế giới hiện đại mà ông đã sống.

Các nhà giáo dục trên đều rất chú trọng đến các hoạt động thể chất, nhằm giúp người học có được một cơ thể tráng kiện, theo hướng thuận tự nhiên, cơ thể khỏe mạnh giúp tạo ra một tinh thần mạnh mẽ. Điều này nghĩa là, giáo dục con người cần phải trang bị đầy đủ cho người học cả sức khỏe thể chất lẫn kiến thức, hiểu biết, tri thức. Tất nhiên, đi vào chi tiết thì phải quan sát rất kỹ người học để đảm bảo phù hợp từng độ tuổi, khả năng hiện trạng của người học, và có được một “giáo trình” hợp lý, khoa học. Louis L'Amour đã nói “Tôi đến với thế giới bằng hai thứ vô giá là sức khỏe tốt và niềm đam mê học hỏi”. Ông cũng nói rằng: “Chúng ta chỉ đơn giản là giải phóng tâm trí khỏi những “gông cùm, kìm kẹp” và cho phép nó hoạt động tự do mà không cần kiềm chế. Nhiều người trong chúng ta học bằng cách cung cấp cho mình “những nguyên liệu thô”, sau đó cho phép tiềm thức tiếp nhận và tự do hoạt động, đó là những gì mà sáng tạo đã làm”.

Vậy, Giáo dục tốt nhất (Best education) là gì? Cách tạo ra nền giáo dục tốt nhất cho bản thân mỗi người thế nào? Nó bao gồm những gì?

Giáo dục tốt nhất, giáo dục đích thực (best education, true education) là tự học, học độc lập, học chủ động, học cái mình muốn, học cái mình thích, học cái mình có thế mạnh, nghĩa là người học phải là người chủ quyết định việc học của mình. Mỗi người sẽ tự tìm ra cho mình phương pháp phù hợp với chính mình. Điều này đồng nghĩa với việc phải có tự do trong giáo dục. Mặc dù, tự do giáo dục sẽ đòi hỏi nền tảng xã hội là dân chủ và tự do đúng nghĩa. Nhưng nếu nền tảng xã hội không đủ hoàn hảo, chúng ta vẫn có thể đạt được nền giáo dục tốt nhất cho chính mình, đặc biệt với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin và internet như hiện nay. Với vị thế, người học là người làm chủ nên giáo dục phải coi người học là trung tâm, toàn xã hội phải làm mọi cách để phát huy hết thế mạnh, sở thích của người học.

Trường lớp không đồng nghĩa với giáo dục (thầy giáo số 1 New York – John Taylor Gatto). Trong lịch sử nhân loại, rất nhiều những vĩ nhân, những triết gia vĩ đại, những nhà khoa học vĩ đại, thậm chí những người giàu nhất thế giới… là những người vô cùng hiểu biết, họ hội tụ đầy đủ ý nghĩa của từ “giáo dục” nhưng họ chưa bao giờ hoàn thành một chương trình đại học nào. Nghĩa là, giáo dục tốt nhất, giáo dục chân chính không phải là giáo dục trường lớp, giáo dục đích thực nằm ngoài trường học. Đặc biệt ở những nơi có nền tảng xã hội kém tự do thì giáo dục trường lớp có vô số vấn đề bất cập, đó là nền giáo dục giả tạo. Ở đó, thầy giáo là “vua” có quyền bắt buộc người học hành xử theo những ý định thông thường là “bất thường” của mình. Nó đặc biệt nguy hiểm khi nhồi nhét những ý tưởng về “quyền lực”, “sự tuân phục”, “nỗi sợ hãi”, những điều giả dối sai sự thật… vào “cái đầu như một tờ giấy trắng” của một đứa trẻ, nó làm “thui chột” khả năng của một con người. Nhắc lại, trường lớp không đồng nghĩa với giáo dục, thậm chí ở một số nơi giáo dục trường lớp mang nghĩa ngược lại của từ giáo dục. Mọi trường lớp đều có giới hạn, do đó, không nên ràng buộc tâm trí của mình vào trường lớp để hy vọng đạt được giáo dục đúng nghĩa. Hãy coi đó là một cuộc chơi nếu buộc phải chơi. Cố gắng để là người chiến thắng cuộc chơi và có được điều mình muốn (bằng cấp, chứng chỉ, điểm số...) trong thời gian ngắn nhất, với chi phí thấp nhất.

Bây giờ, chúng ta sẽ bàn về những vấn đề chi tiết, cụ thể của nền giáo dục tốt nhất. Chúng ta phải làm chủ nền giáo dục của mình, nhưng chúng ta sẽ phải chọn những gì để học giữa vô vàn chủ đề; hàng ngàn, hàng triệu cuốn sách đã phát hành trong suốt lịch sử nhân loại. Chúng ta cùng tham khảo những quan điểm của Thầy giáo nổi tiếng thế giới AJ.Hoge rằng, để có nền giáo dục tốt nhất, chúng ta cần tập trung vào hai phần then chốt bao gồm: Kinh nghiệm cuộc sống và kiến ​​thức từ sách.

Hiểu biết của con người hầu hết được tích lũy từ hai nguồn trên, và chúng ta cần thiết phải có đầy đủ cả hai yếu tố này, chúng sẽ tạo ra cuộc sống tuyệt vời cho chúng ta.

Kinh nghiệm cuộc sống là những việc chúng ta làm trong thực tại, những kỹ năng mà chúng ta học từ trong thực tế của chính mình, hay từ những người mà chúng ta quan sát được.

Kiến thức sách vở hầu hết là từ quá trình đọc, ngày nay, có thể gồm việc nghe, xem các video về giáo dục hoặc từ những phương tiện khác tương tự. Dù có nhiều phương tiện nhưng có thể nói rằng sách vẫn là phần quan trọng chủ yếu của kiến ​​thức. Đó là cách thức chủ yếu để có được kiến ​​thức. Như Louis L'Amour đã nói rằng hãy đọc sách với niềm say mê nhất, đọc bất cứ thứ gì mình thích, đọc một cách ngấu nghiến. Hãy coi việc đọc sách là một thứ không thể thiếu với cuộc sống hàng ngày như là hơi thở đối với sự sống. Nhờ sách chúng ta có thể hiểu, biết rõ về những vĩ nhân xưa, về suốt quá trình lịch sử nhân loại, hay về mọi thứ đang diễn ra quanh ta.

Tại sao lại cần phải có cả hai yếu tố kinh nghiệm và kiến thức?

Hãy tưởng tượng, nếu một người chỉ có kinh nghiệm. Họ đã làm rất nhiều việc, họ tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm và có thể họ thành công hơn một số người, cuộc sống cũng hạnh phúc hơn một số người, nhưng đó chỉ là kinh nghiệm từ chính họ, nó luôn bị hạn chế, luôn là giới hạn bởi nó chỉ xuất phát từ chính những kinh nghiệm của họ. Giữa bối cảnh thế giới biến đổi không ngừng và vô cùng nhanh như thời đại ngày nay, nếu chỉ có kinh nghiệm từ bản thân, chúng ta sẽ khó khăn hơn trong việc thích ứng với những thay đổi của xã hội. Đôi khi sẽ là một cú sốc vô cùng lớn khiến chúng ta không thể vượt qua. Nhưng nhờ kiến thức từ sách, nó sẽ bổ sung cho chúng ta. Khi đọc sách, chúng ta học được từ người khác, từ vô số những kinh nghiệm của người khác. Để viết được một cuốn sách người viết đã phải bỏ ra rất nhiều năm, thậm chí cả cuộc đời để đưa tất cả những kinh nghiệm của họ và của cả những người khác vào trong một cuốn sách hoặc một vài cuốn sách. Đọc sách, chúng ta sẽ thấy rất nhiều người cũng có suy nghĩ giống mình, gặp những khó khăn giống mình, và biết cách họ vượt qua những những thay đổi, những khó khăn của cuộc sống ra sao. Điều này sẽ giúp cho chúng ta sự tự tin cũng như rất nhiều ý tưởng mới mà chúng ta chưa bao giờ nghĩ tới. Vì vậy, chỉ cần đọc sách, chúng ta có thể có được rất nhiều kinh nghiệm của người đó, cả kiến thức, cả hiểu biết, và các giải pháp để vượt qua khó khăn của họ. Thay vì phải có kinh nghiệm từ chính bản thân, thì chúng ta có thể học hỏi từ họ. Thậm chí, chúng ta có thể học hỏi từ một số người thành công nhất, người thông minh nhất, những nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại thông qua những cuốn sách của họ. Chúng ta có thể có được sự thông thái, tri thức và rất nhiều kiến ​​thức từ họ.

Tuy nhiên, nếu chỉ có kiến ​​thức từ sách cũng không đủ. Nó cũng có hạn chế. Bởi nếu chỉ có kiến ​​thức từ sách, chúng ta không có cách nào để đánh giá đúng bản chất và hiểu rõ kiến thức đó, do chúng ta không có ý tưởng nào cả. Đó là vấn đề vấn nguy hiểm. Cần hiểu rằng, bất kỳ người viết giỏi nào, diễn giả giỏi nào, họ đều rất giỏi dẫn dắt và thuyết phục người khác về mọi chủ đề, họ có thể đưa ra những luận cứ rất tốt, rất chặt chẽ cho hầu hết mọi thứ, thậm chí cả những điều hoàn toàn sai. Chúng ta sẽ dễ dàng trở thành “con cừu” hay “con lừa”, bị họ dẫn dắt, lôi kéo và hành xử theo đám đông, bầy đàn. Đó thực sự là nguy hiểm, hãy lưu ý về điều đó. Vì vậy, chúng ta rất cần phải có kinh nghiệm, chúng ta sẽ không dễ dàng tin vào những điều nhảm nhí, những điều dối trá không đúng sự thật. Khi có nhiều kinh nghiệm, với mỗi thứ chúng ta đọc, chúng ta sẽ so sánh và kết nối với kinh nghiệm cuộc sống của mình để đánh giá những gì mình đọc là đúng hay sai, hữu ích hay không hữu ích. Thậm chí tốt hơn nữa, khi chúng đọc một điều gì đó nghe có vẻ hay, và ta tin vào nó, chúng ta nghĩ nó có thể đúng, có thể tốt. Vậy để chắc chắn về điều đó, chúng ta sẽ thử nghiệm nó trong cuộc sống của mình. Thông qua trực tiếp thử nghiệm các ý tưởng, hoặc nhìn vào những người khác đang thử nghiệm những ý tưởng đó, chúng ta sẽ tự tìm ra cho chính mình. Đó là một kiểu vòng xoáy lặp đi lặp lại liên tục giữa kinh nghiệm và kiến thức.

Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta sẽ gặp những khó khăn, thậm chí những điều xảy ra có thể rất mới mẻ với mình, chúng ta không biết vì sao nó xảy ra, thậm chí nó gây ra những tổn thất, mất mát đáng tiếc. Nó khiến chúng ta cảm thấy bối rối, lo lắng, sợ hãi và không biết cách nào giải quyết vấn đề. Đó là lúc kiến ​​thức từ sách có thể rất hữu ích, chúng ta biết rằng những người đi trước đã làm gì để giải quyết vấn đề. Khi đó, nó càng giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cuộc sống của chính mình. Như vậy, kiến thức và kinh nghiệm sẽ bổ trợ cho nhau, nên chúng ta cần có cả hai.

Vậy chúng ta nên làm hay nên học những gì cho hai loại này? Hãy bắt đầu với kinh nghiệm.

Bốn loại kinh nghiệm cuộc sống

Có bốn loại kinh nghiệm chúng ta nên theo đuổi. Cố gắng để có được thật nhiều kinh nghiệm trong bốn lĩnh vực này, càng nhiều càng tốt.

Công việc

Thứ nhất là công việc. Đó là thứ đầu tiên và cực kỳ quan trọng đối với cuộc đời mỗi con người. Ai cũng cần có một công việc, nó là một phần tất yếu của cuộc sống. Và tất nhiên, ai cũng muốn có một công việc tốt, nhiều ý nghĩa. Với những người trẻ tuổi, và đôi khi ngay cả đối với người lớn tuổi, họ chưa thực sự biết họ thích làm gì. Họ không biết loại công việc nào là tốt nhất với họ. Vì vậy chúng ta cần phải có được rất nhiều kinh nghiệm làm việc trong cuộc sống của mình. Chúng ta cần thử nhiều loại hình công việc khác nhau, để thực sự hiểu nó như thế nào. Tưởng tượng về công việc thì khá dễ dàng, và có thể chúng ta cho rằng mình thích công việc nào đó, nhưng để thực sự hiểu nó thì cần thiết phải thử làm việc đó. Như Louis L’Amour đã nói rằng: “Một người trở thành nhà văn không thể chỉ bằng tưởng tượng và một quyết định trở thành nhà văn. Họ trở thành nhà văn bằng cách viết, tập viết thật nhiều, hay học bằng cách thực hành. Hãy ngồi xuống, với cây bút trên tay và đơn giản là viết.”. Trong cuộc sống, nhiều người, có khi đơn giản là xem một bộ phim và họ rất ấn tượng với một nhân vật chính trong phim ví dụ là một chuyên gia môi giới tại phố Wall, họ thấy hình ảnh vô cùng hấp dẫn. Họ muốn trở thành một người như thế. Sau đó họ cũng thử làm nghề môi giới chứng khoán, và khi tham gia thực sự vào công việc, họ nhận ra rằng nó không đơn giản như mình tưởng tượng ban đầu. Có thể sau đó họ không thích công việc đó nữa và quyết định từ bỏ, hoặc cũng có thể lúc đó họ mới thực sự thích công việc đó. Nhưng nếu không thử thì họ không thể biết được nó như thế nào, và nó chỉ mãi trong tưởng tượng của họ mà thôi.

Trong cuộc đời con người hãy nên thử một số công việc sử dụng sức lực cơ bắp, một dạng lao động phổ thông, như khuân vác đồ đạc, giao hàng, phục vụ bàn, làm tại các công trình xây dựng, thậm chí là lái xe ôm công nghệ cao ngày nay... Dù có kỹ năng chuyên môn, có kiến thức, cũng đừng ngại hay xấu hổ vì nó, chúng ta cần thử làm một số công việc đó, nhất là từ khi còn trẻ, dù sau đó có thể chúng ta không thích nó, không làm công việc đó nữa nhưng ít nhất chúng ta cũng hiểu được sự vất vả của các công việc đó, và ta sẽ thấu hiểu cũng như thông cảm cho những người buộc phải sống bằng những nghề đó. Trường hợp khác, một số người dù có kỹ năng chuyên môn nhưng họ lại thích làm việc ngoài trời, có thể phải di chuyển nhiều nhưng họ vẫn thích nó, vì đơn giản là họ không thích ngồi một chỗ trong văn phòng.

Chúng ta cũng nên thử một số công việc về bán hàng, một dạng khác như là tham gia các tổ chức từ thiện, chuyên kêu gọi tài trợ từ các tổ chức cá nhân. Công việc này giúp bạn rèn luyện kỹ năng sale, nắm bắt tâm lý khách hàng, đích đến là khả năng thuyết phục người khác. Đó thực sự là một kỹ năng cần thiết và cực kỳ quan trọng với tất cả mọi người. Như thầy giáo số 1 New York - John Taylor Gatto nói rằng, kỹ năng thuyết phục người khác là kỹ năng quan trọng hàng đầu mà giới tinh hoa chú trọng dạy cho con cái họ, bởi nó là một phần của kỹ năng lãnh đạo. Kỹ năng này không dễ dàng, nhưng vì rất cần thiết nên chúng ta phải thử và thực hành nó thật nhiều.

Sau khi thử nghiệm thật nhiều công việc khác nhau, lúc đó chúng ta sẽ học được rất nhiều, hiểu rất nhiều, và lúc đó quyết định lựa chọn công việc lâu dài với mình sẽ chính xác hơn rất nhiều. Ngay cả lúc này chúng ta đang có một công việc ổn định, chúng ta vẫn nên thử làm một số loại hình công việc khác nữa, như tham gia các phong trào xã hội, từ thiện, làm tư vấn, làm diễn giả… Các công việc đó sẽ giúp ta thấu hiểu cuộc sống tốt hơn, đồng thời cũng giúp chúng ta đề phòng những thay đổi lớn trong cuộc sống buộc ta phải thay đổi nghề nghiệp, lúc đó chúng ta sẽ không còn gì phải lo lắng. Vì vậy, kinh nghiệm làm việc cũng là một phần của nền tảng giáo dục đích thực.

Với trẻ em, hãy cho chúng bắt đầu làm việc càng sớm càng tốt. Bắt đầu bằng việc tự chăm sóc chính mình, phụ việc gia đình (chuẩn bị bữa ăn, dọn dẹp nhà cửa…). Sau đó cho chúng tham gia làm một số công việc thực tế như phục vụ nhà hàng, giao hàng, thậm chí tập kinh doanh thứ gì đó... Chúng ta không bắt chúng phải làm việc để kiếm tiền nuôi thân, đừng biến chúng thành nô lệ cho công việc, cho đồng tiền nhưng cũng đừng để chúng thành kẻ lười biếng. Hãy giúp chúng hiểu được giá trị của lao động càng sớm càng tốt, tất nhiên chúng sẽ học được rất nhiều điều khác nữa, để từ đó có lựa chọn định hướng nghề nghiệp cho mình sau này.

Du lịch

Loại kinh nghiệm tiếp theo là du lịch. Du lịch mở rộng trí tuệ, hiểu biết, tầm nhìn của chúng ta. Nó cũng cho ta sự tự tin. Khi đi du lịch chúng ta học cách tự lập và độc lập hơn, chúng ta phải lên kế hoạch cho mọi thứ, từ ăn, mặc, ngủ, ở, đi lại, giao tiếp, trao đổi với người địa phương, sẵn sàng cho những điều bất ngờ có thể xảy ra, bởi thông thường khi đi du lịch là chúng ta đến những địa điểm mới, nơi mà mình chưa bao giờ đến. Vì vậy, mọi kỹ năng cần được vận dụng để thích ứng với cái mới. Đó sẽ là những kỹ năng cực kỳ quan trọng mà chúng ta cần có.

Hãy bắt đầu với du lịch trong nước, những địa danh gần nơi chúng ta sống, rồi xa dần, mới dần. Chúng ta cần thiết phải hiểu về nơi mình sinh ra, văn hóa, con người, thiên nhiên quanh ta, bởi nó là một phần nền tảng của chính mình. Sau đó là du lịch quốc tế. Khi đi ra nước ngoài sẽ giúp mở rộng tầm nhìn của chúng ta hơn, lúc đó chúng ta mới thực sự hiểu về đất nước mình hơn, mình sẽ so sánh, đối chiếu giữa nước ngoài với trong nước. Vì sao họ lại sống như vậy, vì sao họ hành xử như vậy, vì sao họ phát triển hơn ta, hay vì sao những chỗ khác lại kém phát triển đến thế, vì sao con người hành xử văn minh hay kém văn minh như thế... Rất nhiều câu hỏi cũng như ý tưởng mới sẽ lóe lên trong đầu chúng ta. Hơn nữa, đến những quốc gia khác, do rào cản ngôn ngữ, văn hóa, bạn sẽ gặp rất nhiều khó khăn hơn... mọi kỹ năng sẽ được vận dụng, thậm chí cả ngoại ngữ cũng sẽ là cơ hội tốt để chúng ta sử dụng... Đó sẽ là những kinh nghiệm tuyệt vời mà chỉ khi đi vào thực tế mới có cơ hội được phát huy hoàn toàn mọi kỹ năng đang tiềm ẩn trong mỗi chúng ta, và đó là một phần cực kỳ quan trọng của nền giáo dục đích thực.

Lưu ý, đi du lịch không phải chỉ là đến địa danh nổi tiếng nào đó, chụp vài tấm hình rồi chia sẻ với bạn bè (nhiều người đi du lịch vì mục đích thể hiện là chính), hay nó cũng không đơn giản chỉ là đến đó rồi ăn uống, ngủ nghê no say… sau đó trở về và gần như là “trống không” về những nơi ta đã đến.

Đi du lịch là phải học hỏi được thật nhiều. Trước khi đi nên đọc càng nhiều thông tin về hành trình sẽ đi càng tốt, hiểu về thiên nhiên, khí hậu, ẩm thực, con người, văn hóa… địa danh sắp đến. Để khi đến rồi mới thực sự cảm nhận, so sánh, đối chiếu và thực sự thấu hiểu, học hỏi những nét rất riêng về địa danh đó. Hãy trải nghiệm càng nhiều càng tốt những nét đặc trưng, riêng biệt so với những nơi khác mà chỉ nơi đó mới có. Sau đó, cũng nên ghi lại những cảm nhận, mô tả những nét đẹp của địa danh đó, và có thể chia sẻ cho những người thân xung quanh.

Hãy di du lịch càng sớm càng tốt, càng trẻ càng cần tận dụng các cơ hội để đi du lịch, vì sau khi ràng buộc bởi gia đình, con cái… sẽ khiến cơ hội đi du lịch của chúng ta giảm đi rất nhiều. Hơn nữa, lúc trẻ với tâm thế luôn háo hức tìm tòi, khám phá những cái mới, sức khỏe lại rất tốt… nên càng có hứng thú đi lịch hơn. Với trẻ em, nên bắt đầu lúc chúng 7-8 tuổi, thậm chí có thể sớm hơn, hãy cho chúng đọc, tìm hiểu về địa danh sắp đến, tập cho chúng tự chuẩn bị mọi thứ, đối diện với mọi thách thức mới khi đi du lịch… nó sẽ giúp trẻ học hỏi được rất nhiều, đặc biệt là kỹ năng sinh tồn.

Du lịch thực sự là một phần của giáo dục.

Sức khỏe

Loại kinh nghiệp tiếp theo là sức khỏe, hay vấn đề sức khỏe. Sức khỏe gắn chặt với cuộc đời mỗi người, vì vậy vô cùng cần thiết phải học học cách chăm lo, bảo vệ sức khỏe của chính mình. Có sức khỏe là một phần của một cuộc sống hạnh phúc, một phần của thành công. Nếu không khỏe mạnh, cơ thể tiều tụy, tinh thần yếu đuối, năng lượng xuống thấp chúng ta sẽ luôn cảm thấy buồn chán, bực bội, thành công sẽ giảm đi, hạnh phúc cũng mất dần...

Để bảo vệ sức khỏe, chúng ta cần quan tâm cả ba lĩnh vực chủ yếu của sức khỏe gồm: ăn uống, hoạt động thể chất và hoạt động tinh thần. Muốn sức khỏe tốt, thì cả ba hoạt động trên đều phải tốt.

Chúng ta cần phải biết cách ăn uống khoa học (trình tự ăn, và cách kết hợp thức ăn), ăn uống lành mạnh, theo hướng càng thuận tự nhiên và càng ít qua máy móc càng tốt; càng nhiều thực vật gồm các loại rau, củ, trái cây, hạt... càng tốt; ăn các loại thực vật mà khi nuôi trồng, chúng được chiếu dưới ánh nắng mặt trời càng tốt. Thực chất đó là một phương pháp ăn nhằm ngăn ngừa ung thư, các loại thực vật được nuôi dưỡng dưới ánh nắng mặt trời gồm rất nhiều chất chống oxy hóa giúp trung hòa các gốc tự do trong cơ thể do các tác nhân độc hại gây ra. Sử dụng càng ít chất kích thích như đồ uống có cồn, thuốc lá, trà, cà phê... và càng ít lệ thuộc vào chúng càng tốt. Đặc biệt cần học cách thưởng thức ăn uống, học cách tiết chế sự thèm thuồng đối với ăn uống. Ăn uống vẫn phải cảm nhận cái ngon, mặc dù không phải khinh thường cái ăn uống nhưng cần phải có văn hóa, lịch sự khi ăn uống. Lưu ý rằng, “cái ăn không quan trọng bằng cách ăn”. Rất nhiều điều phải học hỏi liên quan đến ăn uống, và nó cũng là một phần của giáo dục.

Với trẻ em cần phải dạy cho chúng về cách ăn uống càng sớm càng tốt, cần phải có “kỷ luật” ăn uống, đừng sợ chúng bị đói, chắc chắn với bản năng sinh vật chúng sẽ ăn khi chúng đói, điều quan trọng là phải có nguyên tắc khi ăn uống. Cũng nên dạy cho chúng học cách nấu nướng, giúp đỡ chuẩn bị bữa ăn cho gia đình, học cách ăn các loại thực phẩm lành mạnh nhằm bảo vệ sức khỏe.

Tiếp theo là hoạt động thể chất. Nó vô cùng cần thiết với mỗi người. Chúng ta cần phải học cách tập thể dục để có có thân hình khỏe mạnh. Nhờ quá trình thoát mồ hôi và thở ra (thường xảy ra khi vận động thể chất), cơ thể sẽ đào thải rất nhiều chất độc trong cơ thể, giúp giải tỏa căng thẳng, tinh thần minh mẫn. Khi tập thể dục nhiều sẽ tiêu hao năng lượng dư thừa, đặc biệt các loại carbon và lipid không tốt cho cơ thể. Nhất là với trẻ em, ở những độ tuổi tăng trưởng nhanh, hoạt động trao đổi chất trong cơ thể diễn ra rất mạnh mẽ, năng lượng tích lũy trong cơ thể rất lớn do quá trình ăn uống, nên chúng cần được vận động nhiều để hỗ trợ quá trình trao đổi chất, giúp cơ thể tăng trưởng. Do không hiểu về quá trình này, từ gia đình đến nhà trường chỉ chú trọng cho trẻ ăn uống thật nhiều, đồng thời ép trẻ học văn hóa mà không được vận động nhiều. Năng lượng tích lũy trong cơ thể quá lớn, chúng thường dễ nóng giận, không nghe lời, hay quậy phá... nếu người lớn không hiểu nguyên nhân lại càng cố gắng tìm cách kìm kẹp, ép buộc... sẽ dẫn đến trẻ tính tình bướng bỉnh, thiếu kiểm soát, hay đánh lộn, thậm chí những hành động nguy hiểm cho chính chúng và cho những người xung quanh. Vì vậy, các cha mẹ và nhà trường cần phải hiểu quá trình phát triển của từng độ tuổi, để cho trẻ tham gia các hoạt động thể chất một cách khoa học. Qua các trò chơi thể chất, chúng ta cũng học cách vượt qua sự mệt nhọc; rèn luyện được sức bền cho cơ thể, và cả sức bền ý chí, tinh thần; học cách vượt qua nỗi đau (chấn thương có thể có); vượt qua nỗi buồn khi thất bại trong trò chơi, hay biết chia sẻ niềm vui khi chiến thắng trong trò chơi thể thao; học cách hợp tác hay kỹ năng xã hội, kỷ luật trong các trò chơi mang tính đồng đội.

Ngoài ra, thể dục thể thao cũng giúp cơ thể di chuyển nhanh nhẹn, uyển chuyển. Chúng ta cũng có thể học kỹ năng tự vệ chống lại những tấn công bất thường nào đó bằng các môn như: karate, aikido, quyền anh, các môn công phu nói chung... Trong cuộc đời cũng khó tránh khỏi những tình huống bị tấn công bất ngờ, nhất là ở những quốc gia có hệ thống luật pháp yếu thì tình trạng vũ lực lại hay xảy ra. Chúng ta không nhất thiết phải học cách đánh thắng người khác, nhưng ít nhất cũng cố gắng tránh để người khác tấn công mình, từ cách tránh né, di chuyển nhanh, hay những tình huống nguy hiểm vẫn cần thiết phải chống trả để tự vệ. Thực tế, tự vệ là một phần bản năng của sinh vật, chúng ta không nên phủ nhận hoàn toàn nó.

Rất, rất nhiều lợi ích khác của hoạt động thể chất, vì vậy chúng ta cần thiết phải rèn luyện thật nhiều, học thật nhiều, đó cũng là một loại kinh nghiệm quan trọng cho nền tảng giáo dục đích thực của mỗi người.

Tiếp theo là sức khỏe tinh thần. Khi ăn uống lành mạnh, hoạt động thể chất thường xuyên sẽ giúp cho tinh thần được thoải mái, vui vẻ. Và ngược lại, tinh thần tốt sẽ giúp hoạt động thể chất được mạnh mẽ, ăn uống ngon miệng hơn.

Thiền định và thực hành đức tin

Loại kinh nghiệm cuối cùng mà chúng ta cần có cho nền tảng giáo dục đích thực đó là thiền định và thực hành cầu nguyện, một trong các dạng thực hành đức tin. Điều này nghe có vẻ lạ lẫm, nhưng thực tế nó là một phần của cuộc sống của mỗi người, nhất là khi về già hay thậm chí chưa già nhưng họ tìm hiểu nhiều về triết lý cuộc sống thì họ thường quan tâm đến những vấn đề này. Loại kinh nghiệm này sẽ giúp ta cảm nhận, quan sát cuộc sống tốt hơn. Điều này thường phụ thuộc khá nhiều vào nền tảng mỗi người, đặc biệt là văn hóa chung của gia đình, địa phương nơi mỗi người sinh ra.

Chúng ta thường bị chi phối bởi quá nhiều mục tiêu, quá nhiều mong muốn, nó làm cho tinh thần thường bấn loạn, thân ở một nơi nhưng tâm lại ở một chỗ khác, nghĩa là tâm và thân không nhập làm một. Chúng ta hay lo lắng, suy nghĩ rất nhiều thứ cùng lúc, tưởng là lo xa nhưng thực tế lại rất rối, khiến ta mất tập trung, làm việc thường không hiệu quả. Chúng làm cho chúng ta chẳng thể cảm nhận được cuộc sống yên vui, hạnh phúc thế nào. Vì vậy, chúng ta phải học cách “sống chậm”, tĩnh lặng để cảm nhận, quan sát cuộc sống bằng hoạt động thiền định, hay thực hành đức tin. Đừng quá quan trọng vào hình thức hay những động tác quá phức tạp do truyền thông đưa ra. Hãy chú trọng vào bản chất, quan trọng là nó phải giúp chúng ta tĩnh tâm, cảm nhận được niềm vui, niềm hạnh phúc của hiện tại. Bằng cách rèn luyện trạng thái “vô đắc” trong giáo lý Phật giáo, nghĩa là đừng quá tham vọng đặt ra nhiều mục tiêu để rồi lại vất vả, khổ sở chạy theo nó. Hãy luôn tĩnh lặng để cảm nhận hiện tại, miễn sao mỗi ngày đều thấy tươi mới và thấy mình tốt lên.

Hơn nữa, thiền định là một biện pháp để điều tiết hơi thở (giúp thải độc như đã nói ở trên) cũng vô cùng tốt cho sức khỏe. Vì vậy, đó là một phần của giáo dục đích thực nên cũng rất quan trọng và đáng để chúng ta học hỏi.

Như vậy, đó là bốn loại kinh nghiệm mà chúng ta cần có, cần tích lũy càng nhiều càng tốt và càng sớm càng tốt, theo một trật tự rất khoa học để đảm bảo phù hợp với từng độ tuổi.

Những loại kiến thức sách vở cần học

Ở trên, là những loại kinh nghiệm cần có, và nó là một nửa của nền giáo dục tốt nhất, giáo dục đích thực, nửa còn lại là kiến thức, tri thức từ sách. Cùng lúc tích lũy kinh nghiệm, chúng ta cần phải đọc rất nhiều sách. Đọc thực sự là kỹ năng cơ bản của việc học. Đối với hiểu biết, tri thức, kiến thức thì đọc là số một. Với việc đọc chúng ta có thể học được gần như mọi thứ. Dù ở bất cứ đâu, chỉ cần có sách, chúng ta sẽ không bao giờ cảm thấy cô đơn, sách là người thầy, người bạn tốt nhất của chúng ta.

Thông thường, mọi người hay đọc các loại sách mà chúng ta bắt buộc phải đọc ở trường lớp (sách giáo khoa, giáo trình…), nhưng các loại sách này rất ít thực tế, thường rất khô khan, “vô hồn”, rất ít ý nghĩa hàm chứa trong đó. Thậm chí nhiều người sau khi rời nhà trường không bao giờ cầm đến một cuốn sách nào khác để đọc. Họ thường bị cuốn vào vài trang báo tin tức hàng ngày, mà thường nó chỉ là công cụ tuyên truyền của nhóm có quyền phát hành thông tin đó. Tình trạng này đặc biệt phổ biến ở các quốc gia kém tự do. Và như vậy, việc đọc của họ gần như dừng lại ở đó với mớ kiến thức vô hồn, mấy thông tin rất ít sự thật thường gọi là “tin giả”, nên hiểu biết của họ lại càng hạn chế.

Ngày nay, giữa vô vàn các chủ đề và hàng triệu triệu cuốn sách đủ thể loại khác nhau, nó khiến cho chúng ta nếu muốn đọc sách cũng rất khó khăn để lựa chọn. Vậy chúng ta cần chọn thứ gì để đọc? Theo đúng triết lý giáo dục ở trên, hãy đọc những điều mình thích, những điều mình muốn biết, đọc về những vấn đề phát sinh trong cuộc sống, đặc biệt là các loại sách về chuyên môn công việc mà chúng ta đang làm và muốn làm. Nhưng quan trọng hơn, chúng ta hãy đọc sách của những nhà tư tưởng khai nguồn vĩ đại (Think tank), những cuốn sách cổ và kinh điển đã được lịch sử chứng minh cho tính đúng đắn, giá trị của nó đã được khẳng định. Những tư tưởng đó sẽ giúp cho chúng ta có cái nhìn tổng quát về quy luật cuộc sống, để với mỗi tình huống cụ thể, chúng ta đều có cơ sở để có thể đưa ra những phán xét với độ chính xác cao. Như triết gia Thoreau đã nói rằng “khi đã quen với nguyên tắc, quy luật, thì một nghìn sự kiện hay một tỷ sự kiện cũng như nhau”. Khi đó chúng ta sẽ không bị cuốn vào từng sự kiện cụ thể diễn ra trong cuộc sống, không cần phải tìm hiểu quá nhiều chúng ta đã có thể suy luận ra nguyên nhân và kết quả tất yếu của mỗi sự kiện, cao hơn nữa là quy luật vận hành của xã hội chúng ta đang sống. Những tư tưởng lớn đó thường có trong tôn giáo và triết học. Chúng ta hãy bắt đầu với hai thể loại này.

Tôn giáo và triết học

Có thể gộp chung triết học và tôn giáo vào chung một nhóm, bởi tôn giáo và triết học có rất nhiều nét tương đồng. Tôn giáo và triết học tập trung vào những câu hỏi lớn nhất của nhân loại. Những câu hỏi mà chúng ta đã tự hỏi mình hàng nghìn năm qua. Những câu hỏi lớn: Tại sao chúng ta ở đây? Chúng ta đến từ đâu? Bản chất của tự nhiên là gì? Bản chất tự nhiên của con người của sự sống và cái chết là gì? Mục đích cuối cùng của cuộc đời con người là gì? Tâm lý, tư duy con người diễn diến ra sao? Con người hành xử với nhau như thế nào? Đây là những câu hỏi lớn, rất lớn mà chúng ta cần tìm hiểu.

Rất nhiều người được nghe, được đọc một số sách về triết học ở trong nhà trường, họ có cái nhìn rất sai lầm – thường là rất xấu – về triết học, bởi thực tế cái họ được học không phải là triết học đúng nghĩa, nó là triết học giả tạo. Vì vậy, họ thường rất ghét triết học, nghe đến triết học là họ liên tưởng đến những gì vô cùng buồn chán. Đối với sách về tôn giáo cũng vậy, đọc sách về tôn giáo có lẽ là vô cùng lạ lùng với rất nhiều người, đặc biệt là trong trường học thông thường. Nhưng như thầy giáo John Taylor Gatto đã nói về chủ đề “14 bí mật của nền giáo dục tinh hoa”, thì tại các trường của giới tinh hoa tự lập ra để dạy học cho con cái của họ, bọn trẻ được học rất nhiều về tôn giáo, về tư tưởng của nhiều loại tôn giáo khác nhau.

Vì vậy, ngay cả khi chúng ta không theo một tôn giáo nào, chúng ta vẫn nên đọc để biết sự uyên thâm, minh triết tuyệt vời của các tôn giáo, và tương tự với triết học cũng vậy. Nhân loại đã trải qua nhiều nghìn năm lịch sử, vào mỗi thời điểm ở hiện tại nhìn về quá khứ, chúng ta tưởng rằng khoa học đã phát triển lên mức không thể tưởng tưởng nổi. Nào là các cuộc cách mạng công nghiệp 1.0, 2.0, 3.0, 4.0, nào là trí tuệ nhân tạo, Block Chain, Big Data… và chúng ta nghĩ rằng con người đã trở nên vô cùng khác với người xưa. Nhưng khi đọc các cuốn sách cổ và kinh điển của hàng nghìn năm trước hoặc hơn nữa, chúng ta sẽ thấy bản chất con người vẫn vậy không thay đổi. Bản chất con người là vì mình, là lười biếng, là tham lam,… Đặc tính này chúng ta có thể thấy rõ nhất ở trẻ em, bất cứ khi nào bị ảnh hưởng đến quyền lợi của chúng là chúng sẽ khóc đòi ngay lập tức, còn ở người lớn do đã có khả năng tính xa hơn và dựa theo các thang giá trị về tự do, hạnh phúc, danh vọng, tiền bạc quyền lực… điều mà họ cho là quan trọng để từ đó ra quyết định hành xử phù hợp, nhưng về bản chất vẫn là vì mình. Vì vậy, có thể nói con người vẫn giao tiếp, hành xử với nhau như nhiều nghìn năm trước đây, có chăng chỉ là phương tiện, cách thức giao tiếp có sự thay đổi. Chính vì thế mà những vị “Cha đẻ” của các trường phái tôn giáo, triết học như: Đức Phật, Đức Chúa, Sokrates, Plato,... và có lẽ các vị trước đó nữa, họ là những người thấu hiểu những vấn đề này của nhân loại, họ đã đưa ra những triết lý vô cùng uyên thâm về bản chất con người, về tâm lý con người… nên dù đã trải qua nhiều nghìn năm lịch sử, cũng chưa có mấy ai vượt qua được họ.

Tôn giáo bao hàm yếu tố tâm lý học cực kỳ cao siêu trong đó, cao hơn rất nhiều so với tâm lý học hiện đại. Nhiều người không có tôn giáo, và họ có những suy nghĩ rất hạn hẹp về tôn giáo. Họ có suy nghĩ rằng mấy người tin vào Chúa hay Phật... là những người tin vào một vị có phép thuật ở trên trời, luôn sẵn sàng cứu giúp con người thoát khỏi nỗi đau trong cuộc sống. Nhưng đó là một cái nhìn rất thiển cận, hay nói chung nó chỉ phù hợp với trẻ con. Hầu hết những người trưởng thành, thông minh và hiểu biết thực sự sẽ không nghĩ như vậy.

Có rất nhiều sách về chủ đề này, đó là chủ đề rất phức tạp, nhưng nó cũng hoàn toàn phù hợp với khoa học. Hãy tìm hiểu những căn bản về nó, hãy đọc sách nguyên gốc, nguyên thủy về nó, chúng ta sẽ thay đổi quan điểm của mình về chủ đề này. Nó không đơn thuần là vấn đề tin hay không tin, mà quan trọng hơn nó là một phần của giáo dục. Rất nhiều nhà tư tưởng vĩ đại nhất của nhân loại, nhiều nhà khoa học vĩ đại nhất... cũng là người có tôn giáo. Họ rất hiểu biết nhưng họ vẫn tin vào tôn giáo, tất nhiên không phải tin vào những phép màu nhiệm của các ông Tổ tôn giáo mà mọi người thường được nghe. Chúng ta sẽ không được gọi là giáo dục đầy đủ nếu không đọc về tôn giáo và triết học.

Để chọn đọc sách về tôn giáo và triết học thì chúng ta nên bắt đầu với nền tảng văn hoá của mình. Chúng ta nên tìm đọc những sách gần gũi với nền tảng của mình để hiểu về chính mình, những người xung quanh mình. Nếu là một tín độ Phật giáo, hãy đọc sách về Phật giáo (nguyên gốc), chúng ta sẽ quay lại lịch sử hơn 2.000 năm trước. Nếu là một Kitô hữu (Cơ Đốc giáo hay Thiên Chúa giáo) hãy đọc sách về Thiên Chúa giáo, cũng khoảng 2.000 năm trước. Hãy đọc càng nhiều càng tốt, chung một chủ đề về một loại tôn giáo, sau đó mở rộng các tôn giáo khác như: Hindu giáo (Ấn Độ giáo), Bà La Môn giáo, Hồi giáo. Đạo giáo và Khổng giáo (Nho giáo) cũng có thể gọi là một tôn giáo mặc dù thiên hướng triết học nhiều hơn, tất nhiên cần tìm về sách nguyên gốc, tránh chọn những sách đã bị thay đổi, bóp méo nhiều quan điểm của tác giả.

Tương tự với triết học, ở phương Đông thì đọc các trường phái triết học Ấn Độ, Trung Quốc… những tác gia phương Đông để đọc như Lão Tử, Khổng Tử… Nhưng có lẽ ở thời điểm này chúng ta thấy rằng thành quả phát triển của nhân loại chịu ảnh hưởng vô cùng lớn của các trường phái triết học phương Tây, vì vậy cũng cần ưu tiên tìm hiểu nó. Các triết gia vĩ đại của Hy Lạp – La Mã như Socrates, Plato và Aristotle, Machiavelli,… Sau đó có thể đến các triết gia gần hơn như: John Lock, John Stuart Mill, Adam Smith, Rousseau, Montesquieu, Tocqueville, Hegel, Immanuel Kant, Thoreau, Nietzsche, John Dewey,… và rất rất nhiều các trường phái, các triết gia nổi tiếng khác nữa.

Các tư tưởng của các trường phái tôn giáo, triết học rất đa dạng và phong phú. Khi đọc, cần đặt mình vào hoàn cảnh ra đời, quá trình hình thành, phát triển các tôn giáo, triết học đó, chúng ta mới thấy hết giá trị của nó, tránh quan điểm theo hướng cực đoan, nên nhớ, không có hệ tư tưởng nào hoàn toàn đúng hay hoàn toàn sai, đó là bản chất tự nhiên của xã hội loài người. Không nhất thiết phải đọc tất cả, và chắc chắn không thể đọc tất cả về các trường phái tôn giáo và triết học đó. Đọc càng nhiều càng tốt về một trường phái, rồi mở rộng các trường phái khác, thậm chí có thể đọc cả những quan điểm trái chiều, như vậy mới giúp ta thực sự hiểu sâu hơn về các trường phái đó. Triết học hiện đại cũng tốt, nhưng hãy ưu tiên đọc sách cổ và kinh điển, sách nguyên gốc, nguyên bản bằng chính ngôn ngữ mà nó được viết ra càng tốt.

Văn học – nghệ thuật cổ điển

Thể loại tiếp theo là văn học, âm nhạc, mỹ thuật,… chúng ta có thể gọi chung là văn học – nghệ thuật cổ điển. Nên đọc sách văn học – nghệ thuật cổ điển nhưng phải là kinh điển, chứ không phải văn học – nghệ thuật hiện đại.

Trước hết hãy tập trung vào đất nước của mình, hay khu vực mình sinh sống. Mỗi quốc gia đều có một số tác phẩm văn học cổ điển, truyện hay sách cổ điển. Hãy học từ các tác phẩm đó. Do đặc trưng ở phương Đông là các triều đại phong kiến sau hay phá hủy, dẹp bỏ các tàn tích, tư tưởng của các triều đại trước nên các tác phẩm văn học ở phương Đông thường bị mất mát, thất lạc rất nhiều, hoặc bị bóp méo nội dung bởi nền tảng tự do rất yếu, nhưng tất nhiên vẫn còn những tác phẩm kinh điển để đọc, các tác giả như: La Quán Trung (Tam quốc diễn nghĩa), Thi Nại Am (Thủy hử), Tào Tuyết Cần (Hồng lâu mộng), Ngô Thừa Ân (Tây du ký)… Ở phương Tây có thể đọc các tác phẩm của những nhà văn như Homer, William Shakespeare, John Stuart Mill, Thoreau, Emerson, Voltaire, Victor Hugo, Goethe, Pushkin, Hemingway, Mark Twain, Lev Tolstoy, Dostoevsky, George Orwell,...

Tương tự, sách về các loại nghệ thuật cũng rất cần thiết. Các loại hình nghệ thuật giúp đánh thức mọi cảm xúc trong tâm hồn chúng ta, lúc mạnh mẽ, lúc lại nhẹ nhàng êm ái, giúp chúng ta có cảm nhận sâu lắng hơn về cuộc sống. Chúng ta cần phải hiểu cơ bản về luật âm, luật hội họa… như vậy, chúng ta mới thấy được cái đẹp của thế giới quanh mình. Và lưu ý, hãy đọc những sách cổ điển về các chủ đề này.

Tiểu sử, tự truyện

Thể loại tiếp theo là tiểu sử, tự truyện của những người con người vĩ đại. Chúng ta có thể học hỏi được rất nhiều từ những tiểu sử của họ, các cuốn tiểu sử và các cuốn tự truyện. Chúng ta nhận ra rằng tất cả những con người vĩ đại trong lịch sử, họ cũng gặp phải rất nhiều vấn đề khó khăn tương tự chúng ta, những nỗi sợ hãi, lo lắng... tương tự chúng ta, những thất bại tương tự, nhưng họ đã vượt qua những điều đó như thế nào. Điều này sẽ mang lại cho chúng ta sự tự tin và trí tuệ tuyệt vời khi nhận ra rằng: họ làm được và ta cũng sẽ làm được.

Điều này cũng đúng với lịch sử và tiểu thuyết lịch sử. Tiểu thuyết lịch sử là cách tốt nhất để học lịch sử, nó kể những câu chuyện về con người đằng sau các sự kiện, dẫn dắt người đọc với sự khát khao tìm hiểu nhiều hơn về nhân vật.

Một lần nữa, hãy đọc về lịch sử của chính đất nước mình, nhưng không phải từ sách giáo khoa mà là sách lịch sử thực sự. Chọn sách cổ, sách đã được chứng minh tính đúng đắn của nó. Những người viết tiểu thuyết lịch sử giỏi, họ phải nghiên cứu rất nhiều để làm cho cuốn sách trở nên thực tế, hợp logic, vì vậy hãy tìm đọc những tác phẩm đó.

Toán, kế toán và thống kê cơ bản

Thể loại sách khác là toán học cơ bản, bao gồm cả kế toán, tài chính và thống kê, cũng có thể thêm chủ đề về hình học, nhưng hầu hết chỉ cần ở mức cơ bản, trừ khi bạn thực sự thích nó thì bạn có thể nghiên cứu chuyên sâu hơn.

Tất cả chúng ta đều cần toán cơ bản, bao gồm cả kế toán và thống kê. Mọi vấn đề phát sinh trong cuộc sống rất cần chúng ta phải sử dụng toán cơ bản để tính toán. Tiền bạc cũng gắn chặt với đời sống của chúng ta, vì vậy cũng cần hiểu sơ qua về tiền tệ, tài chính, kế toán (tài sản, nợ, dòng tiền...).

Chúng ta cũng cần phải hiểu thống kê, bởi vì các phương tiện truyền thông (báo chí, truyền hình, truyền thanh...) thường rất hay sử dụng thống kê để chứng mình điều gì đó. Nhưng khi hiểu về thống kê chúng ta biết rằng, các mô hình thống kê luôn dựa trên rất nhiều giả định, và chỉ cần một giả định nào đó không chặt là tính đúng đắn của mô hình đó sẽ giảm đi rất nhiều. Thậm chí có rất nhiều giả định sai lầm được đưa vào mô hình, nghĩa là mô hình đó hoàn toàn không còn ý nghĩa gì. Về cơ bản, các mô hình thống kê về hầu hết các vấn đề trong cuộc sống đều có thể gọi là “thầy lang phán bệnh và bốc thuốc”, thậm chí vì một lý do hay mục đích không tốt nào đó nó trở thành “nhắm mắt mà bốc thuốc” thì sẽ thực sự nguy hiểm. Khi đó, tìm hiểu về thống kê giúp chúng ta hiểu được sự thật đằng sau các con số, sự kiện. Chúng ta sẽ thấy rằng người ta liên tục sử dụng các con số thống kê để tuyên truyền, họ dễ dàng thao túng thậm chí bóp méo sự thật, lừa gạt, dối trá... chủ yếu nhằm phục vụ lợi ích của người có quyền đưa ra thông tin đó. Ngay cả các tạp chí chuyên ngành cũng vậy, họ cũng thường đưa ra các bài nghiên cứu, báo cáo nhằm phục vụ lợi ích của một nhóm nào đó. Điều này đặc biệt nghiêm trọng ở các xã hội có nền tảng tự do yếu kém, hầu hết mọi người đều được nhận tin giả (fake news), không một chút sự thật, nên rất dễ bị thao túng, dẫn dụ theo ý đồ của những kẻ dân túy. Hãy luôn đặt nghi vấn trước các số liệu thống kê và nếu có thể hãy kiểm chứng nó, hay chí ít là lắng nghe từ nhiều chiều, bởi không có mô hình thống kê nào là chắc chắn hoàn toàn. Nói vậy không có nghĩa là chúng ta dẹp bỏ nó, không quan tâm tìm hiểu nó, bởi dẫu sao nó cũng giúp chúng ta tập trung vào một số điểm chính quyết định đến biến kết quả của mô hình thống kê, từ đó giúp tập trung nguồn lực giải quyết những vấn đề ưu tiên nhằm đạt được kết quả mong muốn. Vì vậy, chúng ta thực sự cần thiết phải tìm hiểu về khoa học thống kê.

Khoa học

Chúng ta nên đọc về khoa học, nhưng chủ yếu là khoa học cơ bản. Không cần phải trở thành chuyên gia về khoa học, trừ khi chúng ta thực sự yêu khoa học và muốn trở thành một nhà khoa học đúng nghĩa. Khi đó chúng ta phải nghiên cứu những vấn đề chuyên sâu, cao cấp hơn. Các vấn đề về sinh học, vật lý, thiên văn học, hóa học, địa chất,... nó liên quan và tác động trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày của mỗi chúng ta. Mỗi con người tồn tại đều chịu sự chi phối của rất nhiều các quy luật của tự nhiên. Chúng ta làm việc gì, chúng ta đi đâu, hay sức khỏe của chúng ta như thế nào... những loại kinh nghiệm đã nêu ở phần trước đều chịu tác động, thậm chí một số còn xuất phát từ các vấn đề về sinh học, vật lý, hóa học, địa lý... nếu không hiểu căn bản về những quy luật này, chúng ta sẽ rất khó khăn để giải thích những gì xảy ra quanh mình, thậm chí làm giảm khả năng thích nghi và phát triển trong tự nhiên của chúng ta. Không nên tách rời với tự nhiên, hãy sống hòa thuận với thiên nhiên bằng cách hiểu thiên nhiên thông qua việc đọc các cuốn sách về khoa học, hay nó chính là một phần của nền giáo dục tốt nhất.

Ngoại ngữ

Cuối cùng là ngoại ngữ, nó rất cần thiết, đặc biệt là tiếng Anh. Nó giúp chúng ta dễ dàng giao tiếp với thế giới bên ngoài, cho chúng ta thêm sự tự tin. Có thể nói tiếng Anh là ngôn ngữ phổ biến nhất hiện nay. Với tiếng Anh bạn có thể đến mọi quốc gia trên thế giới, tiếp cận với mọi tri thức, mọi nền văn minh của nhân loại. Hầu hết các cuốn sách kinh điển, sách về mọi môn khoa học dù được viết bằng ngôn ngữ nào ban đầu đi nữa cũng được chuyển qua tiếng Anh.

Để đọc sách tiếng Anh, chúng ta cũng cần phải học tiếng Anh nhưng không nhất thiết phải ở trường lớp. Bài viết này không tập trung vào phương pháp học ngoại ngữ, nhưng nói chung, học ngoại ngữ cũng tương tự như học “tiếng mẹ đẻ” (ngôn ngữ bản địa) theo quy trình “nghe -> nói -> đọc -> viết” một cách khoa học. Nghe nhiều điều hay thì nói sẽ tốt, đọc nhiều điều hay thì viết sẽ giỏi. Chúng ta nên tham khảo phương pháp học tiếng Anh của thầy AJ. Hoge giới thiệu sẽ rất hiệu quả, hoặc ít nhất cũng là học theo 7 quy tắc học tiếng Anh mà thầy đưa ra. Nếu muốn có ngôn ngữ tốt, chúng ta phải duy trì chu trình “nghe -> nói -> đọc -> viết” liên tục và không ngừng. Tất nhiên phải có hứng thú, đam mê theo đúng triết lý giáo dục đã nêu ở trên mới có thể duy trì lâu dài từ đó có được kết quả tốt được. Đừng hy vọng viết bằng ngoại ngữ như một nhà văn hay nói bằng ngoại ngữ như một diễn giả chuyên nghiệp trong một sớm một chiều, trừ khi chúng ta chọn nghề nghiệp là như vậy thì chúng ta cần phải luyện tập rất nhiều. Ít nhất, học ngoại ngữ là nhằm để nghe và đọc hiểu được người khác muốn truyền đạt thông điệp gì. Tập nghe và đọc thật nhiều chắc chắn ít nhất hai kỹ năng nói và viết cũng sẽ có thể ở mức dùng được. Điều quan trọng là học ngoại ngữ giúp chúng ta tiếp cận với tri thức, nhất là với tiếng Anh sẽ là vô cùng hiệu quả, chính nó là phương tiện để chúng ta tiếp cận với các loại sách đã nêu ở trên, nên nó sẽ mở ra thế giới cho chúng ta. Vì vậy, nó là một ngôn ngữ vô cùng cần thiết cho nền giáo dục đích thực của chúng ta.

Học tập suốt đời

Như vậy, chúng ta đã hoàn thành nội dung về nền giáo dục tốt nhất, nền giáo dục đích thực, nó bao gồm kinh nghiệm cuộc sống và kiến thức từ sách. Đó là một quá trình lặp đi lặp lại không ngừng, bổ trợ cho nhau giữa kinh nghiệm cuộc sống và kiến thức từ sách, hay đó chính là quá trình học tập suốt đời, và nó chính là phần bổ sung còn lại của triết lý về giáo dục.

Ứng dụng vào giáo dục trẻ em

Theo phương châm giáo dục trên, chúng ta nên cho trẻ được trải nghiệm bốn loại hình kinh nghiệm và đọc các loại sách về các chủ đề đã nêu ở trên càng sớm càng tốt. Tất nhiên, với mỗi độ tuổi, dựa trên sự quan sát rất chi tiết của cha mẹ để thấy khả năng hiện trạng của mỗi trẻ, chúng ta sẽ có chương trình phù hợp với chúng. Chúng ta có thể bắt đầu khi trẻ lên 7-8 tuổi, một số trẻ có thể sớm hơn. Ở độ tuổi đó, về cơ bản trẻ đã có khả năng tự chăm sóc cho mình những vấn đề cá nhân, trẻ cũng có thể bắt đầu đọc được sách.

Với kinh nghiệm, chúng ta có thể cho trẻ được trải nghiệm về hoạt động thể chất, được đi du lịch, được quan sát thế giới xung quanh, được tự làm một số công việc… Với việc đọc, hãy cho trẻ đọc bất cứ thứ gì chúng thích. Nếu trẻ thích tìm hiểu tự nhiên, về các loài động vật, về các loài thực vật, hãy cho chúng đọc, nhưng nên là các loại sách dành cho trẻ em. Nếu trẻ có hứng thú với khoa học, hãy cho chúng đọc về khoa học, những loại kiến thức hết sức cơ bản dành cho trẻ em. Trẻ 7-8 tuổi cũng có thể làm toán, hãy cho chúng học cách tính toán, nhưng tốt nhất là qua các tình huống thực tế, khi trẻ có nhu cầu phải tính toán điều gì hãy hỗ trợ trẻ, học cách đó sẽ giúp trẻ hiểu nhanh và nhớ lâu. Nói chung, hãy để trẻ được đọc những gì chúng muốn, chúng có nhu cầu, điều quan trọng là tạo được thói quen đọc cho trẻ. Vấn đề của cha mẹ hay người làm giáo dục là chọn những cuốn sách phù hợp với khả năng và tâm lý của trẻ. Tất nhiên các loại sách dưới dạng kể chuyện là tốt nhất, nó dễ dàng để đọc và dễ cuốn hút, dễ tạo đam mê, dễ tạo khát khao tìm hiểu kiến thức một cách sâu rộng ở trẻ.


Theo nguyên lý này thì không một nhà trường nào có thể làm tốt bằng cha mẹ. Hãy nhớ rằng, giáo dục xuất phát từ chính gia đình, cha mẹ chính là người thầy tốt nhất của trẻ. Không thể dạy trẻ những bài học lý thuyết, giáo điều, đạo đức sáo rỗng… mà mọi hành động của cha mẹ thì không tuân theo những nguyên lý đó. Không thể ép trẻ rèn luyện thể dục thể thao, ép trẻ làm việc, hay ép trẻ đọc sách… trong khi cha mẹ thì hoàn toàn làm ngược lại. Trẻ sẽ học bằng cách quan sát thực tế, từ gia đình đến nhà trường và ngoài xã hội. Mọi sự vận động của thế giới xung quanh đều tác động đến quá trình học tập của trẻ. Đặc biệt với độ tuổi ấu thơ hay thiếu niên, những quan niệm của trẻ về thế giới gần như là “trắng tinh”, trẻ chưa có khả năng quan sát, phán đoán, đánh giá… dựa trên cơ sở triết lý nào, nếu chúng ta để cho trẻ chỉ quan sát thấy đủ thứ bất bình thường, thậm chí xấu xa của thế giới xung quanh thì sẽ vô cùng khó khăn cho trẻ trong quá trình tự giáo dục sau này, và nó sẽ ảnh hưởng đến suốt cuộc đời của trẻ. Hãy nhớ, cha mẹ chính là tấm gương phản chiếu hình ảnh của trẻ, vì vậy, hãy là người thầy hay đúng hơn là người huấn luyện viên truyền sự đam mê, khát khao hiểu biết, khuyến khích, tạo động lực, truyền cảm hứng… để trẻ tìm đến chân lý của cuộc sống.


(Ý tưởng chính của bài viết này lấy từ các bài nói chuyện [talk shows] của thầy AJ. Hoge và được chỉnh sửa, bổ sung một số điểm. Người đọc hãy tìm đến các bài nói chuyện của ông [bằng tiếng Anh] để nắm được ý tưởng gốc từ chính tác giả. Ở đó không thuần túy chỉ về chủ đề giáo dục, chúng ta sẽ học được rất rất nhiều triết lý sống tuyệt vời từ ông. Vô cùng cảm ơn ông!)