Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 23 tháng 5, 2020

Làm điều đúng hay làm điều gì đó cho đúng

Trong quản trị, người ta hay nói nhắc đến câu nói của người được mệnh danh là “Người sáng lập ngành quản trị hiện đại - The founder of modern management" - Peter F. Druker: “Doing the right things is more important than doing things right" hay “Làm điều đúng quan trọng hơn làm điều gì cho đúng”. Chúng ta nên hiểu câu nói trên như thế nào? Liệu có phải là chúng ta chỉ cần quan tâm làm điều gì đúng là sẽ thành công với mục tiêu đặt ra?
Nếu hiểu một cách đơn giản câu nói trên, chúng ta dễ đi hướng cực đoan, tuyệt đối hóa điều này và xem thường điều còn lại. Suy nghĩ chỉ chọn một trong hai, tương tự như các bài thi trắc nghiệm trong trường học là suy nghĩ không hợp lý, không đúng trong thực tế đời sống hàng ngày. Tại sao chúng ta không chọn cả hai mà cứ phải chọn chỉ một. Nói chọn cả hai trong trường hợp này không đơn giản là kiểu suy nghĩ nước đôi, cái gì cũng được lại là cách suy nghĩ không hợp lý. Chọn cả hai điều gồm: làm điều đúng và làm điều gì cho đúng/cho tốt là cần thiết để có được thành công với những mục tiêu đặt ra. Mỗi lựa chọn trên đều có vai trò quan trọng trong mỗi bước trên con đường tiến tới mục tiêu.
Phân biệt tư duy chiến thuật và tư duy chiến lược
Trước hết, chúng ta cần làm rõ sự khác biệt giữa tư duy chiến thuật (doing things right) và tư duy chiến lược (doing the right things). Tư duy chiến thuật là làm đúng/làm tốt những mục tiêu đã đặt ra, trong khi tư duy chiến lược là tìm kiếm/lựa chọn những việc/mục tiêu đúng để làm. Tư duy chiến lược thường có ở những nhà là lãnh đạo/nhà tạo lập chính sách: tạo ra tầm nhìn. Trong khi tư duy chiến thuật thường có ở những nhà quản lý/điều hành: thực hiện tầm nhìn bằng những chính sách/mục tiêu cụ thể hơn.
Tư duy chiến lược phải đi trước, nghĩa là chọn những việc đúng để làm (doing the right things). Ở các doanh nghiệp thì những người trong hội đồng quản trị phải có tư duy chiến lược, đặt ra những mục tiêu, định hướng đúng đắn cho con đường phát triển của doanh nghiệp. Đúng ở đây không đơn thuần là đúng theo quy định, đúng trên góc độ đạo đức, đúng theo thông lệ mà còn phải đúng hay cụ thể hơn là phù hợp với hiện trạng của mình. Vì vậy, mỗi công ty, mỗi tổ chức… đều cần có một chiến lược phát triển cụ thể. Nói gần gũi hơn, ta thường gọi là định hướng lâu dài. Ở đó, người ta sẽ đưa ra: i) Tầm nhìn là những mục tiêu lớn/tương lai xa; ii) Sứ mệnh hay còn gọi là sứ mạng nghĩa là mục tiêu lớn nhằm mang lại điều gì cho ai và; iii) Giá trị cốt lõi nghĩa là đạt được mục tiêu lớn, nhằm hoàn thành sứ mệnh của mình dựa trên những gì mà tổ chức đang có hoặc dự kiến sẽ có, cụ thể là những nội lực đang có trong bối cảnh thực tế hiện tại, để biết những điểm mạnh nào của mình giúp có thể đạt được tầm nhìn. Chiến lược là lâu dài, nên mục tiêu chiến lược cần phải đúng đắn, tất nhiên vẫn có thể phải điều chỉnh để phù hợp với thực tế. Do đó, quá trình hoạch định chiến lược không thể vội vàng. Chiến lược phải được đưa ra bởi những người có chuyên môn, có tầm nhìn, có tố chất lãnh đạo. Đồng thời, nó phải là sự kết hợp của sự sáng tạo của nhiều con người, nhiều lĩnh vực có liên quan đến tổ chức, để bao quát hết các vấn đề có thể xảy ra ở mọi mặt. Vì vậy cơ chế hoạt động của nhóm hoạch định chiến lược phải là dạng hội đồng, gồm nhiều bên độc lập tham gia, quyền biểu quyết của các thành viên cơ bản là ngang nhau, cấu trúc dạng hình đa giác đều. Trong công ty, nhất là những công ty mang tính đại chúng cao thì số thành viên độc lập phải chiếm đa số.

Hình minh họa: Mô hình quản trị đơn nhất hay một cấp (unitary boards) theo Bob Tricker – người được mệnh danh là “Cha đẻ của kiểm soát quản trị công ty - Father of Corporate Governance”

Sau khi đã có chiến lược (doing the right things) thì cần có chiến thuật (doing things right). Dựa trên chiến lược đã được đưa ra, bộ phận quản lý/điều hành sẽ cụ thể hóa, chi tiết hóa thành các chính sách/mục tiêu nhỏ hơn, nhưng phải xuyên suốt và thống nhất với mục tiêu lớn mà chiến lược đã đặt ra. Tránh trường hợp các mục tiêu nhỏ tự mâu thuẫn lẫn nhau, khiến cho khi đạt mục tiêu nhỏ này thì đồng thời triệt tiêu mất mục tiêu nhỏ khác, kết quả là không bao giờ đạt được mục tiêu chiến lược. Các mục tiêu trong chiến thuật thường ngắn hạn hơn, nên chính sách hay các quyết định phải nhanh. Nó phải được đưa ra bởi những người cố tố chất quyết đoán, ý chí mạnh mẽ, đồng thời, người điều hành phải được trao quyền chủ động xử lý mọi vấn đề phát sinh (gồm cả chủ động về mặt con người), để tạo ra một khối đoàn kết thống nhất trong quá trình thực thi chính sách nhằm đạt hiệu quả cao nhất, đồng nghĩa với việc phải hoàn toàn chịu trách nhiệm với các chính sách/hành động của mình. Vì vậy, cơ chế hoạt động của ban điều hành thường có dạng hình tháp, trong đó người đứng đầu ban điều hành có vai trò cực kỳ quan trọng.
Chúng ta có thể thấy các nhà tư tưởng chiến thuật có xu hướng tập trung vào việc làm đúng/làm tốt những điều đã đặt ra, trong khi các nhà tư tưởng chiến lược lại quan tâm đến việc thực hiện những điều đúng đắn. Nếu đặt chiến lược đúng, nhưng cách triển khai lại sai, hay chiến thuật không hợp lý thì cũng dễ dẫn đến thất bại. Ngược lại, nếu tập trung làm việc gì đó cho đúng/cho tốt, nhưng đó lại là một việc làm sai trái (cả trường hợp ta đã biết và trường hợp chưa biết nó là sai trái) thì những nỗ lực để thực hiện chiến lược sẽ thường là vô ích, bởi nó gặp rất nhiều lực cản cả từ bên trong tổ chức, vì nó khó đạt được sự đồng thuận, xuyên suốt từ trên xuống dưới, bên cạnh những lực cản rất lớn từ bên ngoài tổ chức.
Khi đặt mục tiêu chiến lược sai (doing the wrong things), không đơn thuần là sai về mặt quy luật, sai về mặt đạo đức mà đôi khi chỉ là không phù hợp với hiện trạng của thực tại. Một số trường hợp có thể rơi vào tình trạng không thể đạt được trong thực tế, thường gọi là điều “không tưởng” (Utopia). Nếu bộ máy điều hành vẫn phải thực thi chiến lược không tưởng này, năng lực nội tại không đủ, sẽ khiến cho áp lực luôn đè nặng, chi phí để thực hiện là rất lớn, phải dồn hết toàn bộ nguồn lực để triển khai mà kết quả cũng chẳng thể đạt được. Bi quan hơn khi mục tiêu chiến lược là trái với các quy luật vận hành, thường dẫn đến các mục tiêu nhỏ do bộ phận điều hành đặt ra sẽ tự mâu thuẫn lẫn nhau, đạt mục tiêu nhỏ này sẽ đồng thời triệt tiêu mục tiêu nhỏ khác, khiến cho mục tiêu chiến lược không bao giờ đạt được. Và chính vì vậy, câu nói “Doing the right things is more important than doing things right” là hoàn toàn chính xác trong trường hợp này.
Như vậy, mỗi bộ phận có những đặc trưng về cấu trúc khác nhau, yêu cầu về phẩm chất con người khác nhau, vì vậy mà mỗi người/mỗi bộ phận cần tập trung vào chức năng nhiệm vụ của mình, để phát huy hết thế mạnh nhằm đạt mục tiêu cho bộ phận mà mình đang tham gia. Đồng thời cũng cần có sự độc lập giữa các bên, tránh để quyền lực bị tập trung vào một chủ thể nào, sẽ dẫn đến kém phát huy sự sáng tạo của nhiều người, đồng thời dễ dẫn đến sai sót, và khi sai sót thì gây hậu quả rất nặng nề. Hơn nữa, khi quyền lực bị tập trung vào một chủ thể cụ thể nào đó, thì cơ chế kiểm tra/giám sát của các thành viên độc lập đối với các nhóm thực thi chính sách (bộ phận điều hành) sẽ không thể phát huy tác dụng, điều này dễ dẫn đến tình trạng mọi quy trình/quy chế của hoạt động quản trị chỉ còn “ở trên giấy”.
Sự phối hợp giữa chiến lược và chiến thuật
Ở phần trên chúng ta đã thấy được sự cần thiết và vai trò quan trọng của cả hai loại tư duy chiến thuật và tư duy chiến lược để nhằm đạt các mục tiêu lớn/xa và nhỏ/gần, cũng như cần thiết phải có sự độc lập giữa các nhóm hoạch định chiến lược và nhóm xây dựng chiến thuật. Các nhà tư tưởng chiến lược có xu hướng phân tích tình huống nhưng thường không hành động. Các nhà tư tưởng chiến thuật lại tập trung vào việc làm gì đó, nhưng thường không suy xét kỹ trước khi hành động. Vì vậy, để đạt được hiệu quả cao nhất, cần có sự phối hợp nhuần nhuyễn, thông suốt giữa hai bộ phận hoạch định chiến lược và xây dựng chiến thuật. Điều này đặt ra yêu cầu cần thiết về quá trình truyền đạt, tiếp nhận và xử lý thông tin giữa các bộ phận.
Bộ phận hoạch địch chiến lược cần có đầy đủ thông tin một cách cụ thể, chi tiết về tình hình nội tại của tổ chức/công ty, kết hợp với các thông tin liên quan bên ngoài của công ty ở mọi góc độ, theo từng nhóm chuyên môn mà thành viên của hội đồng chiến lược đảm nhiệm, tổng hợp phân tích thông tin để đưa ra chiến lược đúng đắn cho công ty. Nghĩa là ban điều hành cần phối hợp cung cấp các thông tin cần thiết một cách đầy đủ, chính xác cho nhóm hoạch định chiến lược thông qua các thành viên kiêm nhiệm, trong các công ty là các thành viên hội đồng quản trị điều hành và các ủy ban chuyên trách của hội đồng quản trị. Ngược lại, bộ phận điều hành cũng cần thấu hiểu được các mục tiêu, tầm nhìn của chiến lược một cách nhanh chóng thông qua các thành viên hội đồng quản trị điều hành. Từ đó, ban điều hành sẽ ban hành các chính sách/mục tiệu cụ thể gắn sát với các mục tiêu của chiến lược và thực thi chính sách một cách nhanh và hiệu quả nhất.
Yêu cầu chung cho hoạch định chiến lược và xây dựng chiến thuật
Theo S. Chiavo-Campo thì Mỗi chính sách/mục tiêu đặt ra của mỗi bộ phận cần đảm bảo tuân thủ bốn (04) nguyên tắc của quản trị: i) Minh bạch; ii) Sự tham gia (của các chủ thể liên quan vào việc ban hành thiết chế, chính sách); iii) Khả năng dự đoán được; và iv) Trách nhiệm giải trình. Trong đó, minh bạch là yếu tố cực kỳ quan trọng, giúp cho các bên liên quan đều nắm/thấu hiểu được chính sách, mục tiêu. Từ đó các bên mới có thể đồng lòng/đoàn kết để cùng thực hiện mục tiêu, đồng thời có điều kiện tham gia, đóng góp trong quá trình ban hành chính sách/mục tiêu; tham gia giám sát/kiểm tra các chủ thể thực thi chính sách/mục tiêu; và yêu cầu các bên có trách nhiệm giải trình vấn đề/công việc mình thực hiện. Chính sách/mục tiêu cũng phải đảm bảo khả năng dự đoán được, để các bên liên quan có đủ thời gian chuẩn bị nguồn lực thực hiện, cũng như giảm thiểu các rủi ro trong quá trình hành động.
Khó khăn với những quốc gia/vùng có tình trạng tham nhũng phổ biến
Điều khó khăn là ở các quốc gia/địa phương kém phát triển, tình trạng tham nhũng là phổ biến, thì dù doanh nghiệp có đưa ra chiến lược đúng đắn, bộ máy điều hành và thực thi chính sách được lựa chọn rất chuyên nghiệp và nỗ lực để đạt mục tiêu đi chăng nữa, nhưng khi gặp phải thực tế tham nhũng sẽ là lực cản vô cùng lớn với doanh nghiệp, các định hướng của chính sách dễ trở thành hướng húc đầu vào tường. Tham nhũng ở đây không đơn thuần là khi làm việc với các cơ quan công quyền (tất nhiên nó chiếm phần lớn), mà còn cả quá trình làm việc/tương tác với các đối tác, các khách hàng. Ở các quốc gia có tình trạng tham nhũng là phổ biến thì ngay cả người bảo vệ của công ty là khách hàng của doanh nghiệp cũng có khả năng gây khó khăn, làm chậm trễ quá trình thực hiện hợp đồng của doanh nghiệp với khách hàng nếu không có những khoản lót tay (nho nhỏ). Để đạt được các mục tiêu cụ thể mà bộ phận điều hành thực hiện, họ phải tốn các chi phí ngầm, và theo nguyên tắc nó nằm ngoài sổ sách kế toán của doanh nghiệp. Nhưng doanh nghiệp không thể để vậy nếu muốn tiếp tục tồn tại, do đó, để hợp thức các chi phí này, doanh nghiệp sẽ buộc phải tìm cách “phi chính thức” hay làm điều sai (doing the wrong things) nhằm có được kết quả tốt (doing things right). Và rất có thể trong quá trình hợp thức này cũng phát sinh tham nhũng. Cứ thế đẩy dần lên các các cấp cao hơn, làm méo mó mó mọi quy trình hoạt động của tổ chức, dẫn đến các mục tiêu tự triệt phá lẫn nhau, khiến cho các mục tiêu của chiến lược lại quay về với “hình ảnh trên giấy”.
Kết luận
Như vậy, để thành công với các mục tiêu (mục tiêu của chiến lược và mục tiêu cụ thể trong thi hành) thì cần phải đảm bảo đạt được cả hai quá trình là làm điều đúng (Doing the right things) và làm điều gì cho đúng/cho tốt (Doing the things right). Làm điều đúng sẽ đi trước và làm điều gì cho đúng sẽ theo sau. Các quy trình này cũng cần có sự phối hợp, thông suốt. Và câu nói hoàn thiện hơn sẽ là: “Làm điều đúng cho đúng - Doing the right things right”.
Ghi chú: phạm vi bài viết tập trung nhiều hơn ở góc độ công ty và mô hình quản trị công ty một cấp, đơn nhất - One-tier board of directors also known as unitary board of directors.
Người đọc cần phân biệt sự khác nhau giữa 2 thuật ngữ trong tiếng Anh: Corporate governane (Kiểm soát, quản  trị công ty) và Corporate management (Quản lý/quản trị điều hành công ty).
Xin vui lòng xem thêm bài viết cùng chủ đề tại đây:https://hungphamfb.blogspot.com/2016/08/quan-tri-cong-ty-va-quan-tri-nha-nuoc_16.html

Chủ Nhật, 18 tháng 8, 2019

𝐍𝐡ữ𝐧𝐠 𝐤ẻ 𝐭𝐫ọ𝐜 𝐩𝐡ú 𝐡ợ𝐦 𝐡ĩ𝐧𝐡


Fukuzawa Yukichi – nhà tư tưởng khai nguồn thời Minh Trị Nhật Bản đã nói rằng “Trời không sinh ra người đứng trên người” như một lời khẳng định thêm cho tư tưởng đã được rất nhiều vĩ nhân xưa nói về sự bình đẳng giữa con người với con người. Nhưng xuyên suốt quá trình phát triển lịch sử của nhân loại, vào những thời kỳ xã hội nhiễu nhương, đặc biệt là các nền tảng xã hội độc tài, nó tạo nên sự phân biệt đẳng cấp địa vị vô cùng rõ rệt giữa người với người. Ở đó, kẻ nhờ mưu lược kinh doanh hay thậm chí nhờ lừa đảo mánh lới mà may mắn có được chút tiền, luôn coi những người giàu không bằng mình, nghèo khó hơn mình là những kẻ ngu si còn mình là người thông minh hơn người. Ở những xã hội đó, những kẻ có chút quyền cũng sẵn sàng đè đầu cưỡi cổ người yếu thế, chà đạp lên nhân phẩm người khác, coi người yếu thế hơn mình như cỏ rác còn mình thì oai phong lẫm liệt. Nhưng cũng chính những kẻ đó lại sẵn sàng quỵ lụy, nịnh nọt, thần phục trước những kẻ có quyền, có tiền hơn mình để nhằm hy vọng nhận được sự ban ơn từ kẻ ở đẳng cấp bề trên.
Biếm họa của báo Tuổi Trẻ Cười
Ngày nay, tưởng rằng xã hội đã văn minh hơn xưa rất nhiều, tưởng rằng “mọi người đều có quyền bình đẳng” nhưng những kẻ coi mình ở đẳng cấp bề trên vẫn tràn ngập trong xã hội. Cái thời kỳ xã hội của vật chất, mọi người đều cùng quẫn theo vòng xoáy của tiền bạc (do truyền thông tạo ra tâm lý có tiền là có tất cả), trong đầu người dân chỉ quanh quẩn chữ "tiền", họ đề cao tiền bạc và khi không kiểm soát được lòng tham thì sẵn sàng chà đạp lên các giá trị khác để có tiền bạc. Vì vậy, hình ảnh của những kẻ vỗ ngực nói rằng “Mày biết tao là ai không” hay “Đừng dạy nhà giàu tiêu tiền”, hay khi người khác ý kiến thì người ta nhao nhao lên rằng “Đã kiếm được nhiều tiền như người ta không mà nói” hay “Đừng dạy người giàu phải sống như thế nào”.

Triết gia Thoreau nói rằng: "Khi một nhà buôn dốt nát và kiêu ngạo nhờ công việc kinh doanh thành công mà giành được nhàn rỗi và độc lập, và được chấp nhận vào giới giàu sang, chắc chắn cuối cùng ông ta sẽ quay sang những giới có tri thức và tài năng, cao hơn nhưng khó vào hơn, và nhận ra sự dở dang của văn hóa của ông ta, sự phù phiếm và thiếu hụt trong sự giàu có của ông ta".

Những kẻ có tiền mà thiếu tri thức thường dùng tiền để khỏa lấp sự thiếu hụt, thậm chí trù dập "trí thức", coi thường tri thức, nói chung là trả thù đời, trả thù cho cái mà hắn thiếu hụt. Chính sự thiếu hụt đó cũng khiến sâu thẳm tâm hồn hắn ta luôn trở nên hèn yếu trước những người sở hữu tri thức. Hắn rất dễ tổn thương khi bị người ta nhìn vào sự thiếu hụt của mình. Những lúc yên bình thì hắn vẫn âm ỉ sự hận thù ở trong lòng, và mỗi khi có cơ hội hắn sẽ sẵn sàng phun ra những lời lẽ, hành động đầy phỉ báng, và dù khéo léo đến đâu thì chỉ một giây phút không kiểm soát được cảm xúc là hắn sẽ lộ nguyên hình là kẻ trọc phú hợm hĩnh, coi mình là thần là thánh đứng trên tất cả.

Dù coi thường tri thức, nhưng hắn lại âm thầm khỏa lấp sự thiếu hụt của mình, với cái xã hội nhiễu nhương hắn cũng sẵn sàng dùng tiền để trang hoàng cho mình những bằng cấp để thể hiện rằng mình cũng là người trí thức, nhằm huyênh hoang cho thiên hạ thấy rằng mình là người có đầy đủ mọi thứ và đáng được trân trọng.
Nhưng trí thức thực sự lại không nằm ở bằng cấp, cũng không nằm ở cái danh học giả, tri thức đích thực cũng không phải mấy loại "khoa học giả tạo" mà hắn cố công thuộc lòng để mỗi lúc thể hiện ra lại hót như những con vẹt. Tri thức đích thực là phải giúp con người có thể sống một cuộc sống tốt hơn, sống có đức hạnh và không bị sa vào những lối đi xấu. Còn với những tên trọc phú hợm hĩnh này, hắn cứ cùng quẫn để tích lũy tiền bạc, làm nô lệ cho đồng tiền, biến tiền bạc từ phương tiện, công cụ để mang lại hạnh phúc thành mục tiêu tối thượng của cả đời người. Hắn chẳng thể hiểu được giá trị đích thực của đời người là vì cái gì? Hắn mãi là nô lệ cho những ảo vọng mà "tri thức giả tạo" mà hắn cố công tích lũy tưởng tượng ra. Hắn thực sự là những kẻ đáng thương khi mãi mãi là những tù nhân của những ảo vọng của chính mình!

Thứ Năm, 15 tháng 8, 2019

Đô𝐢 𝐥ờ𝐢 𝐯ề 𝐛à𝐢 𝐯𝐢ế𝐭 "𝐂𝐡ừ𝐧𝐠 𝐦ự𝐜" 𝐜ủ𝐚 𝐆𝐒. 𝐂𝐚𝐨 𝐇𝐮𝐲 𝐓𝐡𝐮ầ𝐧


Có thể cho rằng bài viết không xứng với tầm hiểu biết của tác giả có uy tín đối với độc giả người Việt như GS Cao Huy Thuần. Đánh giá chung thì có lẽ nó quá nhiều “sạn” để đưa ra bàn luận tại một hội thảo, và nếu hội thảo này là hội thảo của những người chuyên nghiệp có chất lượng thì bài viết là không đảm bảo tiêu chuẩn.

Dẫu biết mọi vấn đề của xã hội loài người vốn dĩ phức tạp nó chẳng bao giờ đơn giản như những bài thi trắc nghiệm. Vì vậy mà ngay cả những học giả hàng đầu tại những quốc gia văn minh tiên tiến hàng đầu của thế giới cũng vẫn cãi nhau chí chóe về những vấn đề mà trong nghiên cứu tưởng chừng như rất nhỏ nhặt và rất đơn giản, bởi đặc trưng của nghiên cứu là buộc phải chia vấn đề lớn ra thành nhiều góc độ rất nhỏ để đơn giản hóa và cũng giúp hiểu sâu từng góc độ đó. Tuy với tiêu đề là “Chừng mực” nhưng thực ra mục đích chính vẫn là phương cách để xây dựng một quốc gia phát triển thịnh vượng. Đây là một chủ đề quá lớn để có thể đưa vào mấy trang giấy. Vì vậy tác giả có nêu một số nhược điểm, cái không hoàn hảo về quan điểm của người này người nọ, đặc biệt là hai triết gia lớn như Aristotle và Montesquieu thì cũng là điều rất bình thường. Và chính những việc làm đó lại càng làm cho giá trị của những danh nhân đó ngày càng lớn hơn và sống mãi, trong khi những vị học giả khác, những triết gia thời hiện đại thì họ sớm chìm vào quên lãng và chẳng có mấy ai tìm đến những giá trị tinh thần của họ.
Ảnh: Sưu tầm từ internet
Với chủ đề về phát triển thịnh vượng một quốc gia thì công trình giá trị thời hiện đại không thể không nói đến tác phẩm “Tại sao các quốc gia thất bại” của đồng tác giả Daron Acemoglu và James A. Robinson. Ở đó tác giả cũng giải thích rằng đất nước muốn phát triển thịnh vượng là phải có thể chế (cơ chế) tốt. Thể chế gồm có thể chế cứng là hệ thống luật pháp, và thể chế mềm là các quan niệm về văn hóa, truyền thống, nếp sống, quy tắc ứng xử bất thành văn của xã hội. Tuy nhiên, cái quyết định chính là thể chế luật pháp, qua thời gian sẽ hình thành cái thể chế mềm, là điều mà GS Cao Huy Thuần đề cao – yếu tố văn hóa. Vì thế, văn hóa không phải là yếu tố đi trước như GS. Thuần đã nói được.

Tác giả đã quá “tham” khi ôm quá nhiều vấn đề vào một bài viết ngắn. Tác giả cũng đã “tham lam” khi dẫn dắt đủ các vấn đề từ Đông, Tây kim cổ, chính trị, tôn giáo, lịch sử, văn hóa… vào bài viết có mấy trang giấy thì làm sao đảm bảo được chất lượng. Với chủ đề quá lớn như vậy lại chọn định hướng [văn hóa] không chính xác thì chắc chắn bài viết sẽ có quá nhiều sơ hở.
Bây giờ chúng ta cùng nhìn về một số quan điểm chưa hợp lý mà bài của GS. Cao Huy Thuần đã nói.

Trước hết nói về chủ đề chính của tác giả. “Chừng mực”.

Tác giả đã trích dẫn câu nói của Montesquieu rằng “Bất cứ người nào có quyền lực đều có khuynh hướng lạm dụng quyền lực”. “Mỗi con người, khi dính dáng đến quyền lợi của chính mình, đều không thể nào phán xét cho công minh được”, đó cũng chính là câu nói của Aristotle. Điều đó nghĩa là tác giả đã biết rằng đặc trưng của quyền lực là nó có tính tự mở rộng, tự tăng cường, kẻ nào nắm quyền lực sẽ muốn có nhiều quyền lực hơn, đó cũng chính là đặc tính tham lam, vì mình của mọi con người [bình thường]. Đặc biệt là những chế độ độc tài, thì thâu tóm quyền lực và sử dụng nó để cai trị, trấn áp dân chúng là một phương cách duy nhất để duy trì tồn tại của những kẻ độc tài, bạo chúa. Nói kẻ độc tài cư xử chừng mực chẳng khác nào nói tên kẻ cắp hãy ngừng tay để sống lương thiện. Có vẻ tác giả như đang rao giảng tôn giáo (kiểu dân túy) thì đúng hơn. Nghĩa là không thể chỉ đi khuyên người khác cư xử chừng mực được.
Đoạn cuối tác giả nói “Dân vừa phải với quyền lực và quyền lực vừa phải với dân” thực ra cũng là một điều không phù hợp. Coi quyền lực là chủ thể đối đầu với dân trong khi thực tế quyền lực chỉ là công cụ để kẻ nắm quyền lực cai trị kẻ không có hoặc có ít quyền lực hơn. Trong những nền dân chủ văn minh thì quyền lực cũng thuộc về dân, bởi họ chính là người chấp nhận từ bỏ một phần tự do, một phần quyền lực của mình để tạo ra bộ máy nhà nước nhằm bảo vệ cho những phần tự do và phần quyền lực còn lại của họ.

Tác giả nói “Aristotle cho rằng mục tiêu của quyền lực là lợi ích chung…” là chưa chính xác. Mục đích của quyền lực là mục đích của kẻ nắm giữ quyền lực, bởi quyền lực là công cụ có trong tay của kẻ nắm quyền, và mục đích của kẻ đó là vì lợi ích của mình. Aristotle nói rằng bản chất cuộc đời con người là vì mình nghĩa là muốn mang lại hạnh phúc cho mình. Một quốc gia tốt đẹp là quốc gia mang lại nhiều hạnh phúc cho người dân của quốc gia đó nhất. Vì thế, người dân tuy vì mình nhưng để có và giữ được hạnh phúc cho mình thì buộc phải chấp nhận từ bỏ một phần, trao quyền cho nhà nước để bảo vệ và duy trì niềm hạnh phúc của mình. Vì đã trao quyền để tạo ra bộ máy nhà nước thì phải cấu trúc bộ máy để tránh nó lạm quyền và gây tổn hại đến người dân.

Tác giả nói tiêu chuẩn “cách tổ chức quyền lực (ai cầm quyền) thì nhường thế hệ sau bàn bạc; còn thế hệ chúng tôi, cuối đời rồi, chỉ còn nuôi dưỡng mong ước được thấy tiêu chuẩn thứ hai – “cách hành xử quyền lực (đúng đắn hay tư tưởng, tốt hay xấu) – hừng lên rạng đông ở chân trời. Đây là một quan điểm cũng không hợp lý, trải qua đã rất nhiều năm kinh nghiệm, tác giả vẫn cứ mong mãi cái tiêu chuẩn thứ hai nhưng nó đâu có thấy, vậy mà đến khi cuối đời lại mong nó hừng lên rạng đông làm sao được. Bởi không có cái thứ nhất được thiết lập thì làm sao có cái thứ hai, nên mong cái thứ hai hừng sáng có thể coi là chuyện trái quy luật.

Khi tác giả bàn về một số ví dụ cụ thể của một số quốc gia cũng áp dụng mô hình dân chủ, tam quyền phân lập (mà tác giả ví như con ngoáo ộp) thì có lẽ bị ảnh hưởng khá nhiều định kiến, khiến cho quan điểm mất đi tính khách quan, thậm chí quên đi bản chất, không đúng thực tế. “Dân chủ” và “Tam quyền phân lập” nó chỉ là những thuật ngữ. Nên không thể đặt tên nước tôi là dân chủ, quy định hiến pháp tôi có hình ảnh ba bộ máy là tôi có ngay nhà nước dân chủ đúng nghĩa, tam quyền phân lập chuẩn mực. Mang hiến pháp của quốc gia phát triển, văn minh, thịnh vượng về áp dụng y nguyên tại quốc gia mình là một cách làm máy móc, cách nghiên cứu nửa vời, chưa hiểu thấu được tinh thần của sản phẩm tinh thần – bản hiến pháp, nên khi áp dụng sẽ là kết quả chẳng tới đâu, điều mà tác giả gọi là “dân chủ giả cầy”. Hiến pháp đã ban hành là một văn bản “chết” được viết ra trên giấy, nhưng tinh thần của bản hiến pháp thì vẫn chảy cuồn cuộn trong lòng nó. Vì thế, hiểu được tinh thần của bản hiến pháp tốt mới là điều quan trọng. Từ đó mới có thể xây dựng, cấu trúc bộ máy, ban hành vô số những quy tắc (văn bản luật, dưới luật…) phù hợp với tinh thần của hiến pháp.
Hình: sưu tầm từ internet
Tác giả đã không hiểu rõ được nguyên tắc trung dung dù tác giả đã trích dẫn thuật ngữ này từ Aristotle. Mọi quốc gia đều có ba thành phần giàu, nghèo và trung lưu với số lượng khác nhau. Ba thành phần này có cách suy nghĩ, hành xử khác nhau. Và để thiết lập chính quyền trung dung thì Aristotle nói gồm những ý rằng: Phải tuỳ theo từng trường hợp, tùy trạng thái của mỗi quốc gia, tùy mức tài sản (giàu nghèo) của người dân để mà ấn định không cao cũng không thấp quá để giữ được nguyên tắc là số người được hưởng quyền chính trị phải đông hơn số người bị loại ra. Những người nghèo, dù không được tham gia chính sự, cũng sẽ không bất mãn, miễn hồ họ không bị đàn áp và tài sản không bị tước đoạt. Luật pháp tuyệt hảo là phải phù hợp với từng quốc gia. Ngay cả những luật lệ đã viết xuống thành văn, cũng không có nghĩa là chúng không thể thay đổi được. Chính trị, cũng như khoa học, chẳng ai có thể viết xuống chính xác mọi điều. Vì vậy luật pháp thành văn vẫn có khi phải thay đổi, nhưng việc thay đổi liên tục lại gây tác hại rất lớn như tốn kém chi phí, tạo tâm lý bất tuân luật pháp cho người dân. Vì vậy, khi thay đổi luật phải thận trọng. Chính vì vậy việc ban hành luật lại phải cẩn trọng và chính xác [đòi hỏi người làm luật phải có chuyên môn giỏi và có cái nhìn từ mọi góc cạnh của đời sống xã hội hiện thời]. Vì thế khi hoàn cảnh xã hội thay đổi như thu nhập người dân thay đổi, dân số thay đổi, thành phần thay đổi, trạng thái một quốc gia thay đổi, nhất là trong bối cảnh có những mối quan hệ ràng buộc với các quốc gia khác, thì dù hiến pháp chưa thay đổi, nhưng tinh thần của bản hiến pháp tốt phải được phát huy để thay đổi các hệ thống luật, dưới luật, tạo ra cách ứng xử của người nắm quyền và của người dân cũng sẽ thay đổi theo. Điều này cũng dẫn đến kết quả như tác giả thấy là cùng một bản hiến pháp, cùng một kiểu “tam quyền phân lập” như nhau, mà sao cách hành xử khác nhau đến vậy.

Tác giả cũng chưa chính xác khi nói rằng Pháp cũng “tam quyền phân lập” trong khi thực tế Pháp là “Tứ quyền phân lập”. Tuy nhiên, tính phân lập, độc lập, giữa các cơ quan được quy định trong hiến pháp của Pháp thì không rõ ràng và chặt chẽ như của hiến pháp Hoa Kỳ.

Việc thiết lập các cơ quan chính trong bộ máy nhà nước không nhất thiết phải là tam quyền, mà có thể tứ quyền, ngũ quyền… Tuy nhiên, nó phải đảm bảo tính phân lập, độc lập, cân bằng, đối trọng, kiểm soát, ràng buộc lẫn nhau. Tất nhiên, tác giả không nên ép quá chặt vào thuật ngữ để hiểu “tam quyền phân lập” phải đúng nghĩa hoàn hảo. Xã hội loài người vốn dĩ là thế, không thể có gì hoàn hảo, hoàn toàn phân biệt trắng đen cả. Nhưng cũng không phải ngẫu nhiên mà bản hiến pháp Hoa Kỳ lại duy trì được và là bản hiến pháp lâu đời nhất còn tồn tại ở thời điểm hiện nay. Nên tác giả lại quá lo xa cho đất nước Mỹ khi đang được dẫn dắt bởi vị Tổng thống khác thường, người bị giới truyền thông (thiên tả, giới mà Trump gọi là fake news) gán cho đủ thứ tệ hại trên đời. Không phải ngẫu nhiên lại có thuật ngữ “kiềng ba chân” hay “thế chân vạc”, bởi cả từ vật lý tự nhiên, lẫn cấu trúc quyền lực con người thì cấu trúc ba bộ phận cân bằng sẽ tạo ra cơ chế rất vững chắc, các cơ quan tự kiểm soát lẫn nhau mà không cơ quan nào có thể lạm quyền, hay cũng không dễ dàng để một cơ quan liên kết với cơ quan thứ hai và triệt hạ cơ quan còn lại. Chính điều này cũng làm cho con người buộc phải hành xử chừng mực như tác giả mong muốn.

Kết luận lại, dù tác giả hay nhiều học giả khác có nói rằng những cách thức tổ chức chính quyền mà những vĩ nhân như Aristotle hay Montesquieu đã suy tưởng, chứng minh rồi để lại cho nhân loại là thiếu sót là “không tưởng”, thì điều đó cũng không làm mất đi giá trị của những đứa con tinh thần bất diệt của họ ít nhất cho đến thời điểm hiện nay và còn rất dài trong tương lai nhân loại.

P/s: Chi tiết bài viết của GS Cao Huy Thuần xin trích về tại đây
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU & THẢO LUẬN

Số 38
tháng 8, 2019
CHỪNG MỰC
(Tham luận tại Hội Thảo Hè, Porto,18/19-7-2019)
Cao Huy Thuần
Các anh chị thân mến, trong 21 năm làm Hội Thảo Hè, chúng ta không ngớt bàn về dân chủ, mỗi năm một ý, mỗi người một vẻ, đua nở trăm hoa. Riêng tôi, chưa bao giờ tôi động đến cái chữ "tam quyền phân lập", chẳng phải vì nó là ta-bu, mà vì tôi nghĩ là hãy còn quá sớm để đi vào chi tiết cụ thể khi điều kiện chưa hội đủ, đầu óc chưa sẵn sàng để bước... ngay cả cái bước đầu tiên. Cho đến bây giờ, tôi vẫn còn tự hạn chế chữ nghĩa vào mỗi cái bước đầu tiên ấy thôi, có lúc tưởng nó nhúc nhích được - dưới thời ông Võ Văn Kiệt - nhưng rồi đâu lại vào đấy, hai chân lễ phép nhường nhau. Năm nay, Hội Thảo nêu lên trọng tâm văn hóa, tôi nghĩ đây là dịp để tôi bộc bạch thêm về cái bước đầu tiên này, bởi vì, đúng vậy, bước ấy chính là bước đi văn hóa. Vả chăng, văn hóa là cái nghề của chúng ta, tán gẫu về văn hóa biết đâu dễ nghe hơn là phô diễn ngôn từ chính trị thời thượng. Vậy thì thế nào là "bước đi văn hóa" mà tôi nghĩ là phải đi trước cả những nguyên tắc nền móng đã dựng xây dân chủ, cả cái nguyên tắc nằm ở đầu môi chót lưỡi mà những người đi trước ta đã gọi là "tam quyền phân lập"? Tôi sẽ đặt cái danh từ ấy nằm trong ngoặc kép, bởi vì làm gì mà có "tam quyền"? Cái danh từ ấy là con ngoáo ộp không đáng sợ, vì nó không có!
Tôi sẽ đi từ nguồn gốc xa xôi của nguyên tắc ấy, từ ông tổ thứ nhất là Aristote, rồi mới nói dài hơn về ông tổ thứ hai đã khai sinh ra nó là Montesquieu. Tôi sẽ cắt nghĩa rằng: cái gì quan trọng trong bất cứ chính thể nào, dù dân chủ hay không, không hẳn là những nguyên tắc thành văn mà chính là những nguyên tắc bất thành văn, nghĩa là những yếu tố văn hóa. Hơn cả lý thuyết, học thuyết, chương trình, cương lĩnh giấy trắng mực đen, một thái độ, một đầu óc, một lối sống trong xã hội, một cách đối xử giữa người với người, những yếu tố văn hóa đã un đúc sẵn từ trước ấy, bàng bạc trong không gian chính trị, ảnh hưởng lên cách hành xử quyền lực khiến cùng một chế độ chính trị như nhau trên nguyên tắc, mà nơi này kết quả tốt xấu khác nơi kia, cùng khuôn mà khác dấu.
Ông tổ thứ nhất, Aristote, phân biệt ba chế độ chính trị mà ông suy ra từ các chính thể của các tiểu quốc trong Hy Lạp cổ: chế độ quân chủ, trong đó một người nắm hết quyền hành; chế độ quý tộc, trong đó một thiểu số nắm quyền; chế độ mà ông gọi là "cộng hòa", trong đó số đông nắm quyền. Nhưng trước khi phân biệt như vậy, Aristote nhấn mạnh một điểm cốt tử, trọng tâm trong phân tích chính trị của ông: đâu là mục tiêu của quyền lực? Ông trả lời: mục đích của quyền lực là ích lợi chung. Chế độ chính trị nào nhắm đến việc thực hiện ích lợi chung thì đều là chế độ đúng đắn; chế độ chính trị nào chỉ nhắm đến ích lợi riêng của người cầm quyền thì đều là chế độ hư hỏng, thối nát. Tại sao? Tại vì, ông viết, "Nhà nước không có gì khác hơn là một đoàn thể gồm những con người tự do".
Nhấn mạnh mục đích của quyền lực như vậy rồi, Aristote mới phân biệt ba chế độ chính trị mà ông thấy, nhưng lập tức cả ba đều lại phân ra làm hai tùy theo mục đích nhắm đến. Chế độ quân chủ mà chỉ nhắm đến ích lợi riêng của ông vua thôi thì trở thành chế độ bạo quyền (tyrannie); chế độ quý tộc mà chỉ nhắm đến ích lợi riêng của nhà giàu thôi thì trở thành chế độ thiểu số cai trị (oligarchie); chế độ cộng hòa mà chỉ nhắm đến ích lợi riêng của đông đảo nhà nghèo thôi thì trở thành chế độ mà ông gọi là dân chủ.
Như vậy, có 6 chế độ trong phân tích của Aristote, mỗi 3 chế độ được phân làm hai tùy theo tốt hay xấu, lành mạnh hay hư hỏng. Không phải con số là quan trọng, không phải một người, thiểu số, hay đa số cầm quyền là quan trọng: quan trọng là cách hành xử quyền lực, đúng hướng hay chệch hướng với mục tiêu ích lợi chung.
Nhận lãnh gia tài của Aristote, Montesquieu làm phong phú thêm, mở rộng ra, cải cách để đáp ứng với hoàn cảnh mới của thế kỷ 18. Vừa dựa trên tiêu chuẩn "Ai cầm quyền", vừa khám phá ra bản chất của mỗi chế độ, ông phân biệt 3 chế độ: cộng hòa, quân chủ, độc đoán. Trong chế độ cộng hòa, ta thấy lại sự phân biệt của Aristote giữa chế độ quý tộc (thiểu số cai trị) và chế độ dân chủ (tất cả cai trị). Cũng giống như Aristote, ông tách chế độ quân chủ ra làm hai, nhưng không phải dựa trên tiêu chuẩn ích lợi chung như Aristote, mà dựa trên một tiêu chuẩn khác: luật. Ông vua cai trị bằng luật, thì đó là chế độ quân chủ; ông vua cai trị bất cần luật mà chỉ bằng tùy tiện thất thường mưa nắng của ông thì đó là chế độ độc đoán (despotisme). Ta thấy lại điều mà tôi muốn nhấn mạnh: trong cả hai ông tổ của việc phân tích chế độ chính trị, ông nào cũng phân biệt hai tiêu chuẩn: cách tổ chức quyền lực (ai cầm quyền) và cách hành xử quyền lực (đúng đắn hay hư hỏng, tốt hay xấu). Xin nhường cho thế hệ sau tiếp tục hội thảo với tiêu chuẩn thứ nhất, thế hệ chúng tôi, cuối đời rồi, chỉ còn nuôi dưỡng cái mong ước được thấy tiêu chuẩn thứ hai hừng lên rạng đông ở chân trời.
Tôi vừa nói: Montesquieu đề ra bản chất của mỗi chế độ. Bản chất, ông định nghĩa, là "cái làm cho chế độ ấy là chế độ ấy", là "cái tạo thành cấu trúc đặc thù của nó". Vì vậy mà bản chất của chế độ quân chủ và chế độ độc đoán là khác hẳn nhau. Và bởi vì thời đại của ông là thời đại quân chủ, ông chia hẳn quân chủ ra làm hai để thấy đâu là quân chủ, đâu là độc đoán. Để rõ hơn nữa, ông phân biệt bản chất và nguyên tắc: bản chất của một chế độ là cái làm nó là nó; nguyên tắc là cái làm nó hành động. Mỗi chế độ hàm chứa một nguyên tắc, nghĩa là cái tình cảm nung nấu sẵn trong mỗi thành viên của xã hội chính trị khiến cho mỗi chế độ hoạt động phù hợp với bản chất của nó. Trong chế độ cộng hòa dân chủ, nguyên tắc là đức hạnh, có thể hiểu là đức hạnh chính trị, lòng yêu đoàn thể, tính trọng luật của mỗi công dân. Ví dụ thêm để dễ hiểu hơn, "tiền đâu là đầu tiên" thì chắc chắn không phải là đức hạnh rồi. Trong chế độ quân chủ, nguyên tắc là danh dự, trọng danh dự nhiều khi hơn cả trọng tính mạng. Trong chế độ độc đoán, nguyên tắc là ... sợ, cái sợ thường xuyên nó làm mình thành ra nô lệ.
Cái sợ ấy là căn bản trong phân tích của Montesquieu. Bởi vậy ông mới tách chế độ quân chủ ra thành hai rành rọt, trong khi ông không chia chế độ cộng hòa ra làm hai như Aristote. Với Aristote, có 6 chế độ trong thực tế. Với Montesquieu, chỉ có ba. Đây cũng lại là điểm mấu chốt để hiểu Montesquieu. Ông cũng phân biệt chế độ tốt và chế độ xấu, nhưng cái chế độ xấu nhất phải tách ra để xem như một chế độ riêng biệt là chế độ độc đoán. Tại sao? Tại vì đó là chế độ không biết chừng mực. Chừng mực (modération): đó là tiêu chuẩn để phân biệt tốt xấu. Chỉ cần chừng mực, chế độ cộng hòa và chế độ quân chủ không phải là xấu. Nhưng đã là độc đoán thì nhất quyết là xấu, tuyệt đối là xấu, xấu từ trong bản chất vì bất chấp chừng mực. Bất chấp chừng mực thì không có, và không thể có tự do. "Tự do chính trị chỉ có trong các chế độ chừng mực", quả quyết không gì đanh thép hơn của Montesquieu, vì đó là căn bản trong phân tích của ông. Cho nên, tận căn bản, quyền lực đừng lạm dụng quyền lực thì tự do mới được đảm bảo. Tôi nhấn mạnh lần nữa, chắc không thừa: trong Aristote cũng như trong Montesquieu, điều quan trọng nhất là cách hành xử quyền lực. Với Aristote, hành xử quyền lực đúng đắn là nhắm đến ích lợi chung, thực hiện hạnh phúc cho dân chúng; với Montesquieu, hành xử quyền lực tốt là giữ quyền lực ở mức vừa phải, chừng mực. Aristote nhắm đến đức hạnh; Montesquieu nhắm đến tự do.
Từ đó mà nảy sinh ra cái nguyên tắc bỗng nhiên trở thành ta-bu. Nước Việt Nam của chúng ta đã hồ hởi rước nó vào Hiến Pháp đầu tiên ngay từ khi độc lập rồi mà! "Tam quyền phân lập" chỉ là một danh từ, gọi nó là tên gì khác cũng được, giống như gọi "hoa hồng" là "hoa hường", thì mùi thơm cũng vậy thôi. Mùi thơm mới là thực chất; thực chất của cái danh từ tam quyền tứ quyền gì đó chẳng có gì khác hơn là cách hành xử quyền lực thế nào để cho quyền lực đừng trở thành quá lố đến mức độc đoán, bạo quyền. Đố ai cãi lại được Montesquieu khi ông viết: "Bất cứ người nào có quyền lực đều có khuynh hướng lạm dụng quyền lực". Vậy thì, "để tránh lạm dụng quyền lực, quyền lực phải ngăn chận quyền lực". Tự mình không ngăn chận mình được, chắc chắn như vậy và ai cũng vậy cả, thì phải nhờ ai đó ngăn chận giúp mình. Chỉ có thế thôi! "Ai đó" là ai, thiếu gì cách để suy nghĩ. Miễn là thành tâm tìm cách chừng mực hóa quyền lực. Ai cầm quyền cũng được, miễn là cầm quyền cho có chừng mực, thế là tốt. Thế là tự do được đảm bảo. Chừng mực là tiêu chuẩn; phân quyền là phương tiện. Là phương tiện thì chẳng có gì là cứng nhắc, rập mẫu một khuôn. Có thể tưởng tượng ra trăm thứ "tam quyền phân lập" chứ không phải một. Thậm chí ông Michel Debré, thủ tướng đầu tiên của De Gaulle, một trong những người làm ra Hiến Pháp 1958 của Pháp, đã viết trước đó đến mức này: "Không có phân quyền, bởi vì trách nhiệm tổ chức đời sống xã hội là bất khả phân chia. Những Hiến pháp chia quyền hành ra thành từng khúc sẽ đưa xã hội đến tình trạng vô tổ chức"(1). Nói đến thế để đừng xem cái tam quyền tứ quyền ấy là con ngoáo ộp. Nó chỉ là hình thức và có nhiều hình thức khác nhau. Vấn đề là: ta xem công dân như là những người tự do hay những tên nô lệ. Nếu là tự do thì phải tránh lạm quyền.
Montesquieu chỉ nói thế, và ta hãy hiểu vấn đề cho đúng. Ông phân biệt ba quyền - ba chức năng - nhưng đó không phải là điểm khởi đầu trong suy luận của ông. Ông không bắt đầu bằng chức năng (lập pháp, hành pháp, tư pháp) rồi từ đó phân ra thành ba quyền. Ông bắt đầu bằng việc suy nghĩ làm thế nào để bảo đảm an ninh cho công dân và ông thấy an ninh đó được bảo đảm nếu quyền lực được thăng bằng: từ đó mà ông tưởng tượng ra giả thuyết phân biệt giữa các chức năng. Vậy thì, bây giờ, theo gót Montesquieu, ta cũng có thể tưởng tượng: nếu ta có cách gì làm thăng bằng quyền lực mà không cần phải chặt quyền lực ra thành ba khúc, mỗi khúc hành xử một quyền, thì ai mà chẳng vỗ tay hoan nghênh!
Mà chặt khúc làm sao được! Chặt khúc là chẳng hiểu quyền lực là cái gì. Quyền lực trong nước là chỉ có một thôi! Đó là gì? Là cai trị. Mà cai trị bằng cái gì trong một nước không phải là độc đoán? Bằng luật. Do đó, làm luật là cái chức năng quan trọng nhất. Nhưng đâu có phải chặt khúc cái lập pháp ấy ra rồi giao nguyên xi cho một cơ quan gọi là Quốc hội! Ấy là cái hiểu lầm tai hại nhất sinh ra con ngoáo ộp. Ai mà chẳng biết rằng ngày nay, cơ quan chính yếu đề nghị ra luật là cơ quan mà ta quen gọi là "hành pháp" để chỉ Chính phủ. Chính phủ đâu có phải chỉ làm cái chức năng "hành" luật. Chính phủ còn tham gia vào việc "lập", mà lại tham gia tích cực hơn cả Quốc hội. Hai cơ quan, nhưng chỉ một chức năng. Chức năng ấy, đâu có chặt nó ra được. Nhưng hai cơ quan cùng tham gia vào một việc thì cơ quan này thăng bằng hóa cơ quan kia, tránh độc đoán, giữ chừng mực.
Bởi vậy, không thiếu gì nhà luật học danh tiếng ở Pháp, quê hương của Montesquieu, gọi "tam quyền phân lập" là huyền thoại. Tôi chỉ trích một tên tuổi thôi ở thế hệ hàng thầy của chúng tôi, Georges Vedel, trích câu này thôi, viết cách đây đã hai mươi năm: "Hãy coi chừng những quan điểm đẹp đẽ về sự phân quyền, chấp nhận mà không xét trước. Montesquieu có con mắt thực tế và biết quan sát sắc bén về đời sống chính trị cụ thể, chắc ông sẽ trở mình dưới mộ nếu ông biết những tín điều mà những người tự xưng là đồ đệ gọi là do ông làm ra. Sự phân quyền, hiểu theo nghĩa đen, là không có. Cách đây hơn bốn chục năm, giáo sư Woodrow Wilson (sau này là tổng thống) đã miêu tả rõ cái quá trình không ngừng gồm những mặc cả, , những dung hòa, những thương thuyết ngoài hành lang mà tổng thống Mỹ phải làm để đối phó với Quốc hội"(2).
Hai cơ quan, một chức năng: làm luật. Tùy theo sáng kiến của mỗi nhà lập hiến, sự hợp tác giữa hai cơ quan diễn ra trên thực tế thế nào thì cái mà ta gọi là "phân quyền" sẽ cứng nhắc hay mềm dẻo thế ấy tùy trường hợp, không có tín điều.
Đúng như ông Debré nói, tuy nói hơi quá lời, những hiến pháp tổ chức phân quyền chặt chẽ đều không thể áp dụng được. Hiến pháp đầu tiên 1791 của Cách Mạng Pháp mực chưa ráo đã bị hủy bỏ. Hiến pháp của nước Mỹ, bền bỉ dẻo dai cho đến bây giờ, nhưng thực tế hành xử quyền lực đưa đến một chế độ không mấy phù hợp với ý định ban đầu. Hoặc các nhà làm hiến pháp phải tìm cách thông thái nhất để làm giảm bớt tính chặt chẽ của nguyên tắc phân quyền, hoặc họ định nghĩa lại sâu sắc hơn khái niệm chức năng, hoặc họ làm nhẹ bớt khái niệm quyền lực, tất cả không ngoài mục đích chứng minh rằng sự phân biệt giữa các chức năng không làm cản trở gì sự hợp tác giữa các cơ quan. Nghĩa là, nguyên tắc phân quyền vẫn có thể điều tiết để thích hợp với nhu cầu của thời đại hiện nay là phải có một chính quyền mạnh và hữu hiệu.
Đúng, ở thời đại của Montesquieu, một "chính quyền mạnh" là đáng sợ, bởi vì quyền lực là đáng sợ, và cái đích mà ông nhắm là quyền này ngăn chận quyền kia. Đúng, dưới ảnh hưởng của ông, của Locke, của Blackstone, các nhà lập hiến ở Mỹ đã nghĩ ra cái biện pháp checks and balances " để các cơ quan (tổng thống, Quốc hội) hãm phanh lẫn nhau. Nhưng thời đại ấy đã qua rồi, nghi kỵ quyền lực không phải là không còn chính đáng, nhưng nghi kỵ đến cái mức bóp chặt không cho chính quyền hành động nữa, vây Nhà nước vào trong một vòng vây càng chật càng tốt, để mọi sáng kiến dành cho cá nhân và xã hội, cái thời đại ấy đã thuộc về quá khứ rồi. Cái còn lại, và còn lại muôn đời, là tự do hay nô lệ của công dân.
Chính vì cái ấy mà Montesquieu tán dương chế độ chính trị ở Anh. Việc làm ra luật, từ khi đề nghị đến khi ban hành, là do cả ba cơ quan cùng tham gia: Vua, Viện quý tộc, Viện dân biểu. Không phải chỉ ba cơ quan thăng bằng nhau, mà cả ba thế lực chính trị lúc ấy cũng thăng bằng nhau, tránh được lạm dụng quyền lực, tiêu chuẩn để phân biệt tốt xấu. Đó là cai trị mà biết tuân giữ chừng mực, triết lý mà truyền thống sống của ta gọi là trung dung. Tác giả mác xít danh tiếng Althusser cười mỉa Montesquieu, cho rằng ông đồng tình chia Quốc hội ra thành hai cơ quan như thế là để bảo vệ thành phần giai cấp của chính ông, giai cấp quý tộc. Cũng đúng thôi: thế lực quý tộc đang xuống, thế lực tư sản đang lên, thăng bằng hai thế lực cũng chính là để ngăn chận quyền lực, thể hiện tự do.
Sau này, thiếu gì hiến pháp cũng tưởng tượng ra một "Viện quý tộc" như vậy - một Thượng Viện - để thực hiện sự chuyển mình từ một chế độ thiếu tự do đến một chế độ tự do hơn cho người dân. Trong những tưởng tượng như vậy, Hạ Viện là do dân bầu, Thượng Viện duy trì một số quyền lợi, một số ảnh hưởng của thế lực đã biết đến lúc mình không còn, mà cũng không nên, nắm giữ tất cả quyền lực trong tay nữa. Cái biết đó mới là khó, làm ra hiến pháp để thể hiện cái biết ấy chẳng có gì khó. Thậm chí ở Anh, cũng chả cần phải viết ra hiến pháp nữa, cứ lấy tập tục bất thành văn mà ứng xử. Cách hành xử quyền lực quyết định tất cả.
Bây giờ đây, ai cũng thấy, cũng lo lắng trước hiện tượng biến thể của chế độ dân chủ trong các nước dân chủ Tây phương. Cũng "tam quyền phân lập" cả trên giấy tờ, nhưng Viktor Orban ở Hung đang gây ra một dây chuyền biến thể độc tài trên thực tế trong các nước Đông Âu. Còn ôi thôi, tại quốc gia đầu tiên xây dựng được một hiến pháp dân chủ, nước Mỹ, một ông tổng thống đang bị tố cáo là làm hủ hóa ngay cả lý tưởng dân chủ. Cái gì làm một chế độ dân chủ thực hiện được dân chủ? Yếu tố văn hóa là quan trọng hàng đầu. Mà hai đặc điểm căn bản trong đó là khoan dung và chừng mực. Tôi mượn lời của hai tác giả Mỹ vừa xuất bản sách ở Mỹ: "Tất cả mọi hệ thống chính trị đều dựa trên những nguyên tắc bất thành văn. Trong chế độ dân chủ, hai yếu tố ấy là quan trọng hơn cả. Khoan dung bao hàm ý nghĩa rằng ta phải tôn trọng đối thủ của mình, không xem đối thủ là kẻ thù. Nếu đối thủ được bầu, ta không được phản đối tính chính đáng của người ấy. Và sự chừng mực thì quá trọng yếu trong chính thể tổng thống. Nếu tổng thống, tuy tuân thủ luật, nhưng dùng quyền hành của mình đến mức quá đáng, điều đó có thể làm lủng đoạn nguy hiểm chế độ"(3).
Đó là điều mà ông Trump đang làm. Ông nói dối như Cuội, ông lừa đảo, ông tiền hậu bất nhất, ông suy nghĩ không dài quá mười câu trong tweets, ông khoái khẩu vị của fake news, cứ thế ông làm mưa làm gió, độc diễn trên sân khấu. Cách ông hành xử quyền lực không phải là cách mà dân chúng quen nhìn. Nhưng ông đang là mẫu mực của các tay dân chủ giả hiệu ở Đông Âu. Ông đánh mất hình ảnh dân chủ của nước Mỹ.
Hình ảnh và lý tưởng đó, các nước Tây Âu đang cố giữ trước bão tố của các thế lực cực hữu. Vấn đề nổi cộm hiện nay vẫn là vấn đề mà tôi nhấn mạnh từ đầu, tôi mượn thêm câu nói của một triết gia hàng đầu vừa mất ở Pháp: Không phải là nguyên tắc dân chủ, mà là làm cách thế nào để thể hiện nguyên tắc ấy. "Các định chế - triết gia Marcel Gauchet ấy nói - trước sau gì cũng luôn luôn chỉ là do những người sử dụng nó hình thành ra. Sử dụng nó thế nào thì nó là thế ấy trên thực tế. Tất cả đều do ở sự khôn ngoan minh triết của các nhà chính trị và ở khả năng của họ biết kiềm chế ảo tưởng của quyền lực"(4). Ông Marcel Gauchet muốn ám chỉ tổng thống Macron đang vất vả với cơn khủng hoảng "áo vàng". Tôi xin dài dòng nói thêm vài câu, không ra ngoài đề.

Cùng một hiến pháp cả (1958, tu chính 1962), và cùng một ông tổng thống ấy thôi, vậy mà ông Macron, mới được bầu chưa đầy hai năm, bắt buộc phải đưa ra hình ảnh một ông tổng thống khác, không ở trên thượng tầng chín bệ như Jupiter nữa, mà bay là là xuống đất, cầm micro giao lưu ngang ngửa với bàng dân thiên hạ, chất vấn không ngừng, trả lời không ngừng, từ sáng đến chiều, từ chiều đến tối, hết nơi này đến nơi khác, tự do, bình đẳng. Đâu có phải hiến pháp làm ông thành khác. Quyền lực của ông vẫn thế. Nhưng cách hành xử quyền lực không thể tiếp tục như trước được nữa. Ông không ngự trên trời, ông không đậu dưới đất, ông thừa thông minh để biết giữ thái độ vừa phải.
Tôi không phải đồng chí đồng rận gì với ông Macron khi đem ông vào đây; tôi biết tôi đang nói chuyện về Montesquieu. Chính vì Monresquieu mà tôi xin thêm vài hàng nữa về ông Macron. Để đối phó với khủng hoảng "áo vàng", ông mở một mặt trận "đại thảo luận" khắp nước Pháp như tôi vừa nói, và ông kết thúc bằng "đại thảo luận" với ai? Với trí thức. Đại trí thức đủ mọi ngành, văn học, triết học, xã hội học, sử địa học, phân tâm học, kinh tế học, khí hậu học... chất vấn ngang xương, trả lời đâu vào đấy, suốt 8 giờ 10 phút không ngừng, cho đến 2g30 sáng. "Khó mà tưởng tượng một cuộc gặp gỡ như thế ở tòa Bạch Ốc", đó là câu bình phảm của một đại trí thức không phải của phe ta (5). Ủa, hay thế, cùng là "tam quyền phân lập" cả mà! Mà sao ván cờ của một tay bợm vô văn hóa, vô trí thức, khác với cách chiếu tướng của một chàng trí thức đến thế! Đâu phải chỉ nguyên tắc dân chủ là làm nên dân chủ! Bao nhiêu "tam quyền phân lập" trên thế giới chỉ cốt để làm nên dân chủ giả cầy.
***
Trở về lại với Hội Thảo của ta. Trong 21 năm làm hội thảo, tôi đã nói là tôi chưa bao giờ động đến chữ "tam quyền phân lập", không phải vì sợ cái chữ ấy có chứa ngòi thuốc nổ gì, mà chỉ vì mọi nguyên tắc đều phải được hiểu đúng đắn trong quá trình lịch sử của nó để áp dụng cho thích hợp trong một thời đại khác, tại một thửa đất văn hóa khác. Trong 21 năm, tôi đã mơ ước có ngày không khí chính trị thông thoáng hơn, cởi mở hơn, tin cậy hơn, mở đầu cho những thảo luận thực sự trí thức, thực sự khoa học, trong sáng như gương. Không khí chính trị ấy là bước đầu. Bước đầu không phải là để cãi nhau về nguyên tắc, học thuyết, tam quyền tứ quyền, điều này điều nọ trong hiến pháp, cương lĩnh hay gì gì đó. Bước đầu là một thái độ văn hóa. Khoan dung là văn hóa. Chừng mực là văn hóa. Đừng coi những người tỏ bày ý kiến xây dựng với mình là kẻ thù. Đừng coi trí thức là kẻ thù. Thế là văn hóa. Hãy coi bất cứ cực đoan nào cũng đều là phản văn hóa. Nói như vậy có gì mới chăng? Đâu có! Ấy là văn hóa truyền thồng của nước ta.
Dù có những lúc đạo Nho là thống trị, nước ta chưa bao giờ có tôn giáo độc tôn. Mà ngay trong đạo Nho, trung dung là tinh yếu. Giữ thái độ vừa phải, không thái quá, không bất cập, ấy là an lạc cho bản thân, điều hòa trong xã hội. Đạo Phật xây dựng cả một triết lý sâu thẳm về trung đạo mà chỉ cần một hình ảnh tầm thường thôi là cũng đủ để tu: chơi đàn thì phải căng dây đàn vừa phải, tiếng nhạc mới tròn.
Từ Montesquieu, tôi thường tự hỏi: tại sao cùng một chế độ quân chủ cả, quyền lực không khác, mà chế độ chính trị thời nhà Trần khác với nhà Lê hay nhà Nguyễn? Phải chăng cả Lê lẫn Nguyễn đều đưa Nho giáo lên địa vị thống trị, trong khi nhà Trần áp dụng thật đẹp tôn chỉ "tam giáo đồng nguyên"? Một bên là thái quá, một bên là dung hợp? Thế chẳng phải là vì cách hành xử quyền lực khác nhau? Dung hợp giữa ba tôn giáo chưa đủ, dung hợp cả trong cách tu: "thiền tịnh đồng tu". Chưa hết đâu: cả Lê lẫn Nguyễn, và cả trong cái văn minh quân chủ mà Lê Nguyễn học thuội từ cái đại quốc thiên triều kia, ở đâu thấy có, dù chỉ là một ý nghĩ thoáng qua thôi, về một Hội Nghị Diên Hồng? Vẫn chưa hết, cái này thì Montesquieu ở dưới mồ chắc sẽ he he lên một tiếng khoan khoái: ở đâu, trên khắp thế giới quân chủ, và nhất là quân chủ ở thiên triều, ngay cả cơ quan và chức năng Vua cũng chia hai, có Vua và có Thái Thượng Hoàng? Ở đâu, trên khắp thế giới quân chủ, có một ông vua lỡ say rượu, phải quỳ trước sân rồng để tạ tội như vua Trần Anh Tông? Tổ tiên ta đã tưởng tượng đến thế, sao ta không tưởng tượng tiếp để đưa thành hiện thực trên giấy tờ mà cứ học thuộc như vẹt? Chính vì chấm dứt tưởng tượng mà bạo chúa làm tiệt nòi minh quân. Thế nào là minh quân, thế nào là bạo chúa? Nếu không phải vì cách hành xử quyền lực khác nhau thì là gì?
Vậy thì xin miễn cho tôi làm chiến tranh nguội, hẩm, hay nóng với những câu hỏi về nguyên tắc trong lúc này. Văn hóa hãy bắt đầu, hãy đi trước chính trị. Bước đầu hãy là bước đi văn hóa. Hãy từ bỏ cực đoan trước đã. Hãy nhắm ích lợi chung trước đã. Hãy biết yêu tự do, ghét nô lệ trước đã. Hãy có tinh thần trọng luật trước đã. Hãy tạo thăng bằng trong nội bộ và nội tâm trước đã. Hãy sáng kiến, hãy tưởng tượng. Hãy biết làm người gãy đàn trước đã, căng dây vừa phải. Dân vừa phải với quyền lực. Quyền lực vừa phải với dân. Hai bên cùng chừng mực đối xử với nhau để đi đến nguyên tắc thành văn. Ấy là văn hóa.
Mong rằng đây không phải là tiếng vạc kêu sương trong đêm dài.
Chú thích:
(1) Michel Debré, La République et ses problèmes, Plon, 1952, tr. 38.
(2) Georges Vedel, La Constitution de 1958, Comité national chargé de la publication des travaux préparatoires des institutions de la Vè République, Document pour servir à l'histoire de l'élaboration de la Constitution du 4- 10-1958, Vol. 5. Commentaires sur la Constitution (1958-1959), La Documentation française, 2001, tr. 345.
Thời Đại Mới | Tháng 8, 2019

Cao Huy Thuần | Chừng Mực 9
(3) Steven Levitsky & Daniel Ziblatt, How Democracies Die, Phỏng vấn trong Le Monde des livres, 8-3-2019.
(4) Marcel Gauchet, Phỏng vấn trong Le Monde, 12-3-2019.
(5) Michel Wieviorka, Xem tường thuật trong Le Monde, 20-3-2019, trang 8 và trang 29.
© Thời Đại Mới
Thời Đại Mới | Tháng 8, 2019
Nguồn: http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai38/201938_CaoHuyThuan.pdf?fbclid=IwAR3eZUuAU2JAUqxiDmBj7xS0TgkykiNEOHoTRJS4qklc1dw3TLinhUsKwAI

Thứ Ba, 23 tháng 7, 2019

Ướ𝐜 𝐯ọ𝐧𝐠 𝐜𝐚𝐨 𝐯ờ𝐢 𝐯ề 𝐦ộ𝐭 𝐦ạ𝐧𝐠 𝐱ã 𝐡ộ𝐢 𝐭𝐡𝐚𝐲 𝐭𝐡ế 𝐟𝐚𝐜𝐞𝐛𝐨𝐨𝐤


Không ai đánh thuế ước mơ, nhưng ước mơ viển vông thì chỉ nên để trong suy nghĩ cá nhân, hay âm thầm hành động mà thôi.

Ông Hùng đang "nhầm chuồng". Ông ấy là chính trị gia, là người đứng đầu ngành của một cơ quan hành pháp, nhẽ ra là nghĩ cách để quản lý doanh nghiệp tuân thủ luật pháp, và tháo gỡ những vướng mắc do cơ chế gây ra để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động. Còn việc đầu tư cái gì, vào đâu, như thế nào đó là chuyện của doanh nghiệp, họ chỉ cần thấy kỳ vọng lợi nhuận cao là họ làm. Nếu anh dùng quyền lực của anh để ép doanh nghiệp thực hiện, trái với quy tắc của thị trường thì chỉ gây tổn hại cho xã hội mà thôi.


Ông ấy sai, thứ nhất là về từ vựng (cái này có thể bỏ qua với công dân bình thường, nhưng với chính trị gia thì không ổn, nhưng nói chung tạm chấp nhận). Ông ấy dùng từ "triết học của facebook" là không hợp lý, người ta gọi là "triết lý của facebook" chứ không dùng từ như ông ấy.


Thứ hai, ông ấy phê phán vấn đề giá trị của 2,3 tỷ người dùng chỉ rơi vào một người là Mark Zuckerberg là một cái hiểu không đầy đủ về kinh tế thị trường. Cần hiểu rằng, trong kinh tế thị trường (tự do) thì ai mang lại nhiều giá trị cho cộng đồng thì sẽ được hưởng lợi nhuận do người dùng sẵn sàng chi trả. Nếu quan điểm đó của ông ấy được mở rộng ra thì chúng ta hãy bỏ sử dụng windows, các sản phẩm của Apple, google… và mở rộng hơn nữa một cách cực đoan thì chúng ta nên không sử dụng bất kỳ sản phẩm nào do người khác làm ra mà chủ động làm ra mọi thứ cho nhu cầu của mình. Và như vậy có lẽ là trở về thời kỳ đồ đá.


Thứ ba, anh nói facebook không tuân thủ luật pháp địa phương cũng không hợp lý. Vấn đề là địa phương phải có hệ thống luật pháp rõ ràng và tuân thủ theo các luật pháp, công ước quốc tế mà địa phương đó có tham gia thì các doanh nghiệp nước ngoài buộc phải tuân thủ, sai thì anh có đủ cơ sở để xử lý buộc họ phải tuân thủ. Anh bắt các tổ chức nước ngoài phải "nhập gia tùy tục" lại là cái kiểu tư duy làng xã, nếu họ "nhập gia tùy tục" mà tục của anh trái với "tục" của quốc gia họ, hay "tục" của quốc tế thì họ sẽ bị xử phạt, thậm chí nếu "tục" của anh trái với lương tri thì họ còn tự hành hạ thân tâm của mình. Luật chơi của facebook tạo ra nó phải tuân thủ luật pháp của Hoa Kỳ - một trong những nước có hệ thống luật pháp thuộc hàng văn minh hàng đầu thế giới. Hơn thế nữa, họ là doanh nghiệp toàn cầu nên phải tuân thủ hệ thống luật pháp quốc tế, bằng chứng là chính facebook cũng đã từng bị những khoản phạt rất nặng khi vi phạm việc cung câp thông tin người dùng cho bên thứ ba. Vì thế "triết lý" hoạt động của facebook dù chưa gọi là hoàn hảo, nhưng nó đã làm tốt nhất có thể với họ, bởi thực tế nếu tuân thủ chặt chẽ mọi quy tắc mà các địa phương yêu cầu, họ sẽ tốn kém chi phí và phải đánh đổi với lợi ích mang lại. Vì thế, là cơ quan hành pháp thì hãy tìm những những bằng chứng, chứng minh họ đã vi phạm luật pháp của địa phương (những luật này cũng tuân thủ luật pháp quốc tế) để xử lý họ. Có như vậy mới quản lý họ được.

Thứ tư, về mặt ý tưởng, ông ấy tưởng rằng ông ấy là người duy nhất có ý nghĩ đó. Thật là khôi hài. Thế giới 8 tỷ người giả sử trong đó 6 tỷ người từ 15 tuổi – 70 tuổi, thì cũng có vô số người ở hàng trăm quốc gia trên giới đã nghĩ về ý tưởng đó, đồng thời cũng có vô số người đã thực hiện những ý tưởng đó rồi, tất nhiên thành công thì không nhiều, và cách họ làm cũng không hẳn là cạnh tranh trực tiếp với facebook, google... Vì thế, không thể suy nghĩ cạnh tranh theo kiểu sống còn như vậy. Phải suy nghĩ theo hướng thị trường, có thể mình là một phần nào đó trong hệ sinh thái của facebook nhằm phục vụ người dùng, hay cũng có thể là còn một số khách hàng không thích facebook thì mình chọn thị trường ngách đó để khai thác thì hợp lý, chứ không nên suy nghĩ chưa làm đã nghĩ chiến đấu với "người khổng lồ". Mà muốn có những thứ sáng tạo đó thì bộ óc con người phải được giải phóng, mới có được những ý tưởng sáng tạo vượt trội được. Chứ cứ cái thể chế khiến cho con người chỉ nghĩ những gì mình muốn thôi đã không dám rồi thì lấy đâu được sáng tạo. Mở rộng hơn thì thực tế cũng cho thấy, đến nay thế giới vẫn chỉ có một "Thung lũng silicon" mà chưa thể có cái thứ hai, dù rất nhiều quốc gia trên thế giới đều muốn có cái "thung lũng" này.


Nhẽ ra, với cái nhìn sâu và vĩ mô hơn, anh có thể nói rằng, hiện nay các tập đoàn lớn trên thế giới có quyền lực vô cùng lớn với người dùng, họ bắt người dùng phải tuân thủ những quy tắc mà họ đặt ra (tất nhiên những quy tắc này vẫn phải tuân thủ luật pháp của các quốc gia), để mỗi khi người dùng vi phạm là họ cấm, họ cắt… và quan trọng hơn, họ chỉ cho người dùng coi những gì mà họ muốn cho coi, họ tạo ra một thế giới ảo như là một "Thế giới mới tươi đẹp" của Aldous Huxley đã tưởng tượng ra, nó như một ma trận để người dùng chìm đắm trong đó mà không phát hiện ra được, biến con người thành "nô lệ" cho họ (ý tưởng trong phim  Ma trận), đó là vấn đề hết sức nguy hiểm mà mạng xã hội nói chung đang gây ra cho con người. Nhưng nó lại đang là một xu thế không thể đảo ngược của thời đại, đặc biệt là thời đại công nghệ 4.0 ngày nay. Anh có thể khuyến khích doanh nghiệp tạo ra thêm nhiều lựa chọn khác cho người dùng, để giúp mọi người "tỉnh táo" (take the red pill) thoát ra khỏi thế giới ảo mà một vài ông lớn tạo ra, khi đó mọi người sẽ quay về những giá trị gốc của con người, tránh quá xa đà và các mạng xã hội, thay vào đó là tìm đọc những tác phẩm kinh điển đã được lịch sử chứng minh để hiểu quy luật của con người, của tự nhiên, của xã hội. Những điều đó thường có ở những tác phẩm lớn thuộc lĩnh vực tôn giáo và triết học, lịch sử. Và đọc những thứ này cũng giúp chúng ta có cái nhìn rõ ràng, đầy đủ, đa chiều về những phát biểu tương tự của ông Hùng. Chúng ta có thể hiểu về những động lực nào ẩn đằng sau những phát biểu của giới chức Việt Nam về việc lập ra một mạng xã hội và công cụ tìm kiếu thay thế facebook, google.


Kết lại: Nói chung những câu này chỉ được hiểu theo nghĩa "chém gió" của thời hiện đại, và nó hợp với vị trí tuyên giáo, tuyên truyền, và hợp nhất là trong cuộc trà dư tửu hậu khi các đàn em đệ tử đang cung phụng tiếp đãi rượu thịt… cho người có quyền mà thôi. Với hiện trạng này thì những ước mơ đó có thể gọi là viển vông mà thôi. Chỉ có thể thông cảm cho ông ấy là bởi vì ông nắm quá nhiều vai, từ lập pháp đến hành pháp, ông là người đứng đầu cơ quan hành pháp chuyên ngành nhưng lại giữ vị trí chủ đạo trong việc lập pháp trong lĩnh vực thông tin, truyền thông. Đồng thời ông cũng có vai trò vô cùng quan trọng trong lĩnh vực tư pháp khi có thể phân xử việc sai/đúng của các thành viên trong xã hội. Thêm nữa, ông đang nắm vị trí quan trọng của cơ quan tuyên giáo nên lời nói phải mang nghĩa tuyên truyền nhằm đảm bảo lợi ích của những người có quyền hiện nay. Nhưng nên nhớ, tất cả quyền lực nằm trong tay một người, hay một nhóm người đều gọi là độc tài, mà đã độc tài thì là tệ hại, và chỉ gây tác hại vô cùng nguy hiểm cho xã hội mà thôi.

Chủ Nhật, 23 tháng 12, 2018

Thiền, thiền hành – Hãy bắt đầu từ sự đơn giản

Thiền - Bắt đầu từ sự đơn giản
Nói đến thiền, chúng ta thường nghĩ đến hình ảnh những vị thiền sư ngồi yên bất động với những tư thế khó trong một không gian tĩnh lặng, thậm chí phim ảnh còn làm ra hình ảnh những làn khí mang năng lượng vô cùng lớn bốc ra từ cơ thể của thiền giả… Chính những điều này làm cho “thiền” trở nên xa rời hơn với đời sống thực tại, nó trở nên quá khó khăn thậm chí đến mức phi thường, do đó những người bình thường không thể thực hiện được. Thực ra đó chỉ là một trong nhiều cách để thực hiện thiền tập. Đúng ra, những gì mà mọi người thường thấy về thiền chỉ nên là nguồn cảm hứng cho người nào muốn luyện tập thiền với mong muốn có được nguồn sức mạnh phi thường, còn với hầu hết mọi người khi bắt đầu luyện tập mà lại luôn nghĩ về những hình ảnh ấy thì chỉ làm cho chúng ta nản lòng và từ bỏ vì quá khó khăn để đạt được mà thôi. Cần hiểu rằng, thiền tập đơn giản hơn thế rất nhiều.

Hình: sưu tầm từ internet
Theo nguyên lý căn bản nhất và mục tiêu đơn giản nhất thì thiền chính là giúp chúng ta tập trung hơn. Hãy bình tĩnh suy ngẫm lại chúng ta sẽ thấy, rất nhiều khi cơ thể (thân) chúng ta ngồi đây nhưng suy nghĩ (tâm) của ta thường hướng đến một đối tượng nào đó ở chỗ khác. Chúng ta thường hay lo lắng nhiều về tương lai hay đau buồn về quá khứ. Đang ngồi ăn nhưng trong đầu luôn bộn bề những lo toan về cuộc sống, về những dự án, những công việc đang còn dang dở. Đang ngồi trong không gian tĩnh mịch và được nghe những bản nhạc du dương, nhưng chúng ta lại nghĩ về những hoạt động vui chơi cuồng nhiệt, hay về một trận bóng đá có đội bóng chúng ta yêu thích đang thi đấu, hay đau đáu về những sai lầm đã mắc phải trong quá khứ. Đang chơi đùa và được nghe những tiếng cười của con trẻ nhưng trong đầu ta lại lo nghĩ về những vấn đề có ảnh hưởng đến sự thành bại trong công việc kinh doanh. Với thời đại của smart phone lại càng tệ hại hơn, dù đang làm bất cứ việc gì, chúng ta thường có thói quen cầm theo chiếc điện thoại để lướt qua đủ các loại dòng tin tức, các thông báo trên màn hình gửi đến ta khiến ta bị cuốn theo nó một cách rất bị động. Chúng ta tưởng rằng cùng lúc chúng ta có thể làm được rất nhiều việc một cách hiệu quả, nhưng thực tế nó lại làm hại chúng ta. Đầu óc chúng ta suy nghĩ về rất nhiều thứ cùng một lúc, nó gây ra những cảm xúc hoặc quá vui, khi lại quá buồn, trong khi lại bỏ qua hiện tại. Tình trạng này là do thân và tâm của ta mỗi thứ một nơi, thân ở nơi này nhưng tâm luôn bay bổng nơi xa xăm nào đó. Hậu quả là, những cảm xúc này vừa tiêu tốn rất nhiều năng lượng của ta một cách vô ích thậm chí lại còn làm hại đến tâm lý của ta, đầu óc ta luôn bị rối loạn, lúc nào ta cũng có cảm giác là con người vội vã, nó khiến cho chúng ta không thể cảm nhận được hiện tại, không còn biết niềm vui nào ở hiện tại. Nếu cứ hành động như vậy liên tục sẽ thành thói quen, khiến chúng ta không thể tập trung làm bất cứ việc gì, và chất lượng cuộc sống sẽ giảm đi rất nhiều giá trị. Vì vậy, điều quan trọng nhất của thiền tập là giúp cho chúng ta tập trung, làm cho thân và tâm hợp lại với nhau, hòa vào làm một để cảm nhận giây phút của hiện tại và của thực tại, lúc đó mới đúng nghĩa là chúng ta đang sống.

Chính vì lẽ đơn giản đó nên đôi khi chỉ là 1-2 phút tập trung hoàn toàn vào hiện tại cũng chính là thiền tập rồi. Do đó, chúng ta cũng có thể thực hiện thiền ở bất cứ đâu, dù ở nhà hay nơi làm việc, thậm chí ngay cả khi đang đi trên đường... và cũng chỉ cần 1-2 phút đơn giản đó thôi, nhưng lại mang lại cho chúng ta rất nhiều lợi ích về sức khỏe thể chất cũng như sức khỏe tinh thần. Tùy vào hoàn cảnh cuộc sống mỗi người, chúng ta có thể thực hiện thiền tập theo những cách khác nhau, dù ở tư thế đi, đứng, ngồi, nằm… chúng ta đều có thể thực hiện thiền tập. Ở mỗi cấp độ của thiền tập cũng có cách thực hiện khác nhau, nó cũng tương tự như khi chúng ta luyện tập một kỹ năng nào đó thì đều phải đi từ đơn giản đến phức tạp. Muốn đạt đến mức độ chuyên nghiệp hay cao hơn là phi thường thì cần phải có phương pháp luyện tập đúng đắn theo một vòng xoáy đi lên trong luyện tập (hay trong học tập) một kỹ năng là: i) Yêu cuồng nhiệt kỹ năng đó; ii) Luyện tập ở cường độ cao, liên tục; và iii) Tiến bộ nhanh. Nhưng quan trọng, để có thể yêu cuồng nhiệt một kỹ năng thì nhất thiết ta phải chọn được loại kỹ năng tốt (tốt cho xã hội hay ít nhất là tốt cho chính mình mà không làm tổn hại người khác), đúng đắn thì mới có thể yêu nó liên tục và lâu bền được (chủ đề này nằm ngoài phạm vi của bài viết nên chỉ nói ngắn gọn ở đây).

Nói một cách chuyên môn, theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh thì: “Thiền tập gồm hai giai đoạn. Thứ nhất là thiền chỉ, chỉ có nghĩa là dừng lại, dừng lại mọi suy nghĩ tập trung vào một điểm để làm tâm tĩnh lặng. Thứ hai là thiền quán, là khả năng chú tâm nhìn sâu để đạt được sự thấu hiểu. Trong thiền chỉ, ta chỉ chú tâm vào một việc, ví dụ như bước chân hay hơi thở”. Chú tâm luôn có nghĩa là chú tâm vào một cái gì. Chánh niệm luôn là chánh niệm về một cái gì. Ta không thể chú tâm hay chánh niệm về không-một-cái-gì. Vậy thì muốn thực tập chánh niệm, ta cần một đối tượng. Khi chú tâm vào hơi thở thì hơi thở là đối tượng của sự chú tâm và chánh niệm. Khi tạo ra năng lượng chánh niệm thì năng lượng ấy sẽ ôm ấp đối tượng của niệm và giữ nó sống động trong tâm trí.
Tiếp tục duy trì chánh niệm vào đối tượng, ta có thể đạt tuệ giác. Đây là bước thứ hai của thiền tập. Ví dụ khi giận, ta muốn tìm ra lý do. Thực tập niệm và định giúp ta thấy được bản chất của cơn giận và tuệ giác đó giải phóng ta khỏi buồn giận. Đối tượng của niệm và định càng hấp dẫn ta càng dễ định tâm, nếu không thì dù cố gắng ta vẫn khó chú tâm. Do đó, bí quyết là chọn một đối tượng hấp dẫn; đối tượng mà hấp dẫn thì tuệ giác sẽ đến nhanh.”

Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng nói: “Hơi thở là cầu nối giữa thân và tâm”, tập trung vào hơi thở sẽ dễ dàng giúp cho thân và tâm hòa vào làm một. Hơi thở có ý thức khác hẳn với hơi thở vô thức mà thường chúng ta hay thở. Hơi thở thông thường sẽ không đẩy hết toàn bộ khí trong phổi, và luôn bị tồn đọng trong phổi, trong đó có rất nhiều chất độc cũng tồn động theo và rất không tốt cho cơ thể. Hơi thở có ý thức và đều đặn thường giúp hơi thở được dài hơn, sâu hơn, vì vậy cũng đẩy được gần như toàn bộ khí trong phổi ra khỏi cơ thể, vì thế chất độc cũng được đẩy hầu hết ra khỏi cơ thể (tất nhiên chất độc cũng được đẩy ra khỏi cơ thể qua các con đường khác như mồ hôi, tiểu tiện…).

Tóm lại, thiền tập một cách đơn giản nhất chính là sự tập trung. Chúng ta có thể thực hành trong mọi công việc hàng ngày: Làm việc gì thì chỉ tập trung vào việc đó, không được đang làm việc này mà đầu óc lại nghĩ sang việc khác, muốn tập trung được thì cần chọn việc đúng mà chúng ta yêu thích, khi đó sẽ dễ dàng để ta tập trung vào việc đó.

Ứng dụng vào thiền hành (đi bộ thiền)
Hình: sưu tầm từ internet

Đi bộ thiền hay thiền hành chính là việc tập trung hoàn toàn tâm trí vào bước đi. Nhưng vì sao lại là thiền đi bộ mà không phải là thiền chạy. Đơn giản bởi vì khi chạy thì chân, tay, cơ thể, mắt… đều phải hoạt động rất nhanh, do đó sẽ cần rất nhiều nhiều năng lượng cùng một lúc, khi đó hơi thở buộc phải gấp gáp hơn, cơ thể cũng sẽ nhanh mệt hơn, và trí não cũng sẽ bị phân tâm nhiều hơn. Còn khi đi bộ, cơ thể hoạt động nhẹ nhàng với tốc độ chậm, trí não dễ dàng tập trung vào từng bước đi, hơi thở cũng dễ dàng duy trì đều đặn, thở dài và sâu hơn. Tốt hơn nữa là chúng ta nên tạm thời đóng hết các cơ quan giác quan khác lại, có thể dùng tai nghe để nghe nhạc thiền, hoặc loại nhạc nhẹ nhàng để tai gần như không bị phân tâm bởi tạp âm bên ngoài. Mắt thì tập trung vào phía trước, hoặc nếu điều kiện cho phép (đường đi vắng người và không có chướng ngại vật…), chúng ta có thể nhắm mắt nhẹ và đi, lâu lâu lại mở mắt để quan sát đường rồi lại nhắm trở lại để tập trung hơn. Còn nếu điều kiện không cho phép thì có thể để tai, mắt vào việc cảm nhận âm thanh, hình ảnh của thiên nhiên. Áp dụng triệt để với các giác quan khác để nhằm giúp ta tập trung suy nghĩ vào bước đi một cách tối đa. Lúc này có thể dành tâm trí vào việc đếm từng bước chân so với từng nhịp thở. Đặc biệt nên cảm nhận sự phồng xẹp của phần bụng dưới theo từng hơi thở, đây là khu vực nằm xa bộ não, nơi rất dễ di chuyển, dao động, còn phần bụng dưới rất ít di chuyển nên rất vững chãi, vì vậy cũng giúp dễ tập trung tâm trí của ta. Bước đi trong trạng thái như vậy, ta sẽ cảm thấy thật sự êm dịu, nhẹ nhàng và sảng khoái trong tâm trí. Cơ thể được thư giãn và rất dễ chịu. Tập quen dần thì ta có thể áp dụng bước thiền quán như Thiền sư Thích Nhất Hạnh nói ở trên, đó là tập trung suy nghĩ về những vấn đề đang diễn ra quanh ta, nhìn nhận sâu hơn vào chúng, thấu hiểu nó, để từ đó dễ dàng hơn trong việc tìm ra giải pháp để giải quyết chúng. Với cách thiền hành như vậy, cơ thể cũng không cảm thấy sự mệt mỏi, vì vậy, chúng ta có thể đi miệt mài mà không thấy mệt, và cứ muốn đi mãi không dừng.

Một điều cần chú ý nữa là, như Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng nói, sẽ rất cần thiết có những tăng thân đi cùng trên con đường tu tập. Khi thiền hành nói riêng, hay thiền nói chung, nếu có được những người bạn đồng hành sẽ là điều tuyệt vời. Bởi nó sẽ giúp ta có thêm động lực, tăng thêm niềm vui, từ đó thêm yêu thích khi luyện tập, để có thể luyện tập một cách bền bỉ, liên tục, lâu dài, và chính là áp dụng theo quy tắc upward spiral đã nói ở trên. Điều đó, sẽ giúp chúng ta đạt được thành công trên con đường thiền tập một cách dễ dàng hơn rất nhiều.
Điều quan trọng của luyện tập là tạo được thói quen và duy trì liên tục

Với riêng người viết cũng vậy, luôn có con gái là người bạn đồng hành trên mỗi chặng đường. Nhờ quá trình luyện tập này, con gái đã học được rất nhiều môn thể dục khác nhau với những thành tích vượt xa kỳ vọng, cũng như vượt xa mức trung bình của những trẻ khác, và đó cũng là động lực cho ba thực hiện thiền hành một cách bền bỉ, đều đặn và đạt được những thành công nho nhỏ trên con đường thiền tập.