Tổng số lượt xem trang

Thứ Sáu, 28 tháng 10, 2016

Góc nhìn về văn hóa vùng miền và thể chế


Mới đây, facebooker Nguyễn Văn Đực đã trích lại những bình luận của facebooker Hanh Nguyen liên quan đến lối sống Bắc – Nam (chi tiết bình luận này được nêu ở phía dưới). Tác giả cho rằng, người miền Nam ứng xử đàng hoàng, lịch sự, phóng khoáng, thật thà, nhã nhặn… nói chung là có văn hóa hơn người miền Bắc.

Vậy sự thật có đúng như tác giả đã đề cập không? Nguyên nhân là do đâu?

Với chủ đề này, nếu chỉ đưa ra những quan điểm đơn giản dựa trên việc quan sát một vài sự việc và kết luận chung cho toàn bộ xã hội (thậm chí một số quan sát của tác giả còn không chính xác và khá phiến diện), mà không có sự phân tích thấu đáo, không nhìn nhận một cách khách quan, không tìm hiểu kỹ nguyên nhân sâu xa tại sao, thường rất dễ dẫn đến tư tưởng vùng miền, cục bộ, lớn hơn là dân tộc Kinh hay không Kinh, rồi lớn hơn nữa là màu da, sắc tộc, chủng tộc, tôn giáo...

Tranh luận kiểu này sẽ gây ra những ý kiến phản đối vô căn cứ, thậm chí chà đạp lên quan điểm của người đối lập.

Loài người đã bị tổn thất biết bao của cải, vật chất và sinh mạng để giành sự công bằng cho mỗi con người được sinh ra, đấu tranh chống lại những tư tưởng kỳ thị này.

Văn hoá hay không văn hoá, nói rộng hơn là lối hành xử của con người không phải do vùng miền, khu vực lãnh thổ, nó là do hiện trạng thể chế nơi đó tạo ra, mặc dù văn hóa cũng được coi là một dạng thể chế (phi chính thức), nhưng nó phụ thuộc rất nhiều vào các loại thể chế chính thức khác (thể chế kinh tế, thể chế chính trị). (Vui lòng xem thêm tại bài viết này về vấn đề thể chế tại đây:
hoặc muốn rõ hơn, người đọc tham khảo tại tác phẩm “Why nations fail” – Tại sao các quốc gia thất bại của GS Kinh tế Trường đại học MIT - Daron Acemoglu - người đã được nhận giải thưởng John Bates Clark).

Con người ngay từ khi mới sinh ra ở một nơi nào đó, buộc phải có cách ứng xử cho phù hợp với thể chế của địa phương đó, lâu dần sẽ hình thành tính cách, ở phạm vi rộng hơn là lối sống của khu vực, vùng miền, quốc gia đó…Ví dụ người Việt sống ở Mỹ lâu dần cách sống cũng như người Mỹ và người Mỹ sống ở Việt lâu dần thì cách sống cũng chẳng khác gì người Việt, mặc dù trong sâu thẳm bản chất con người đó vẫn còn những nét ứng xử đặc trưng của địa phương nơi người đó được sinh ra và lớn lên, tuy nhiên, những nét đặc trưng đó ít có cơ hội được thể hiện ra ngoài khi người đó sống đủ lâu ở một địa phương khác.

Ngày nay chúng ta đang sống là thời kỳ của hội nhập của cả thế giới, và là xu thế không thể chống lại. Nó là quá trình giao lưu, giao thoa cả về kinh tế, văn hoá, con người... Vì vậy chúng ta cũng cần góp công xây dựng thể chế của ta sao cho phù hợp với thế giới văn minh, để ta cũng tiến tới một xã hội văn minh, mang lại cuộc sống hạnh phúc cho toàn bộ cộng đồng dân tộc Việt Nam.

(Người đọc có thể tham khảo một số nhận xét từ người có chuyên môn về vấn văn hóa vùng miền tại đây:

Còn đây là chi tiết bài nhận xét được trích từ facebooker Nguyễn Văn Đực:

“Không KỲ THỊ , chỉ góc nhìn về lối sống Bắc-Nam. Phải chăng do vùng miền , do chế độ, do giáo dục... mà khác nhau?

Một bài viết hay. Tác giả thật dũng cảm khi dám nêu lên những khía cạnh thật của con người và vùng miền mà bất chấp gạch đá ném vào. Một bài viết đã gây nên cuộc chiến bàn phím không bao giờ dứt. Nhưng thôi mặc kệ, bởi vì: "Thuốc đắng giã tật. Lời thật mất lòng" mà, biết làm sao được. Xin cám ơn cuộc đời, cám ơn ba má đã cho con sanh ra là người Sài gòn.
Hanh Nguyen
*
Người miền Nam ứng xử "đàng hoàng" hơn miền Bắc?
Có nhiều ý kiến trái chiều về việc người miền Nam có văn hóa sống phóng khoáng và lịch sự hơn người miền Bắc. Vậy đó có phải là sự thật hay không?

Việt Nam là một đất nước có chiều dài với sự phân hóa khá rõ về văn hóa sống và ứng xử ở cả 3 miền Bắc - Trung - Nam. Và có nhiều ý kiến trái chiều về việc người miền Nam có văn hóa sống phóng khoáng và lịch sự hơn người miền Bắc. Vậy đó có phải là sự thật hay không?

Người miền Nam sống đơn giản nên mọi thứ đều thoáng và dễ chịu. Còn đối với người miền Bắc, họ sống phức tạp nên nhiều khi trở thành lối sống giả. Cuộc sống bí bách qua lau dài ; khí hậu khắc nghiệt cũng góp phần làm cho người miền Bắc tính tình nóng nảy, văn hóa ứng xử kém hơn người miền Nam.

Báo Giáo dục Việt Nam nhận được thư bày tỏ sự ủng hộ quan điểm này của độc giả Trịnh Hoàng Hiệp. Để độc giả khắp cả nước có thể tiếp tục bàn luận về vấn đề "nói bậy, chửi tục", chúng tôi xin đăng tải nguyên văn lá thư này.

Có giai thoại kể lại rằng, nhà phê bình Hoài Thanh, tác giả của cuốn sách bất hủ "Thi nhân Việt Nam" trong thời gian sống tại miền Nam đã chẹp miệng mà nói: "Người miền Nam, ai cũng lịch sự. Cứ mở miệng ra là cám ơn với xin lỗi rối rít. Ngồi ở trong nhà, có ai đi ngoài đường chõ miệng hỏi cái gì mà mình trả lời xong, cắp đít đi thẳng, không thèm cám ơn một tiếng, thì không cần nhìn, mình cũng biết ngay đó là dân ngoài Bắc vào". Ngay trong cách nói này của ông cũng cho thấy rằng, văn hóa giao tiếp, ứng xử của người miền Nam... ăn đứt người miền Bắc.

Đất nước Việt Nam chia thành nhiều vùng miền rõ rệt, có nguồn gốc tại miền Bắc. Sự phân chia này ảnh hưởng rõ ràng đến lối sống và văn hóa mỗi nơi một khác. Ngay cả trong giọng nói, ngôn ngữ giao tiếp từ Bắc vào Nam đều có sự thay đổi, đặc biệt là hai thành phố lớn Hà Nội và Sài Gòn. Gần đây, những clip được tung lên mạng về thói nói tục, chửi bậy của học sinh đã làm dư luận vô cùng phẫn nộ, bức xúc: Khi nữ sinh nói chuyện bằng chân tay, Clip hai nữ sinh hỗn chiến kinh hoàng, Choáng váng với nam sinh Thủ đô chửi tục trước cổng trường. Đây không chỉ đơn thuần là câu chuyện học đường mà còn là câu chuyện của toàn xã hội. Bạo lực học đường ở miền Bắc ngày một gia tăng nguy hiểm và có thừa mức độ man rợ... Môi trường nào cũng có những bức xúc, học sinh miền Nam có đánh nhau, nhưng mức độ man rợ thì không bằng miền Bắc. Học trò miền Nam chỉ đánh đấm nhau rồi thôi chứ ít khi kèm theo những hành vi xúc phạm như chửi bới thậm tệ, lột áo ngay giữa phố. Cứ thử xem những clip của học sinh Bắc thì biết, đánh nhau không khác gì côn đồ, dẫn đến "đối thủ" chấn thương cả về thể xác cũng như tinh thần.

Trong cách cư xử với bề trên, hai miền Nam Bắc đều biểu hiện khác nhau. Nếu người miền Bắc nói “ạ” sau mỗi câu hỏi hoặc câu trả lời thì người miền Nam thường đệm "thưa" vào trước, "dạ" vào sau. Từ thuở nhỏ, hầu hết đứa trẻ nào cũng được dạy những lễ nghĩa cơ bản như vậy nhưng theo thời gian, khi con người dần lớn lên thì từ “ạ” của người miền Bắc thường được cắt giảm. Có lẽ bởi "ạ" mang nặng sự nghiêm túc, cứng nhắc và mô phạm, không còn phù hợp trong giao tiếp. Còn người miền Nam vẫn giữ nguyên từ “dạ” hay "thưa" như một lẽ tự nhiên.

Mặc dù Hà Nội là trung tâm văn hóa nhưng tôi thấy rằng về sự lịch lãm, tinh tế thì người miền Bắc hơn người miền Nam, thế nhưng về văn hóa cư xử trong cộng đồng thì người miền Bắc lại phải học hỏi người miền Nam. Trong các lễ hội, người miền Nam ít cảnh nhốn nháo, xô đẩy hay cố tình làm hại của chung. Họ luôn có ý thức tôn trọng người khác và bảo vệ mình.

Về cách sử dụng hai từ "cảm ơn" và "xin lỗi" hai vùng miền cũng khác nhau. Người miền Bắc rất hạn chế trong cách nói hai từ này, người ta chỉ nói như một luật lệ bất thành văn khi con cái nói với bố mẹ, ông bà, người ít tuổi nói với người hơn tuổi mà không biết rằng giao tiếp với cộng đồng cũng rất quan trọng. Nếu đi ngoài đường trên đất Bắc mà bạn bị xe đụng, bị giằng kéo, xô đẩy thì bạn chỉ nhận được những cái trợn tròn mắt, rồi phóng xe qua trước mặt. Nhưng người miền Nam thì khác, họ sẵn sàng nói xin lỗi nếu sai.

Ở Sài Gòn, chuyện vào siêu thị, cửa hàng... thấy những cô nhân viên cúi gập người chào là điều hết sức bình thường. Thế nhưng ở Hà Nội, bạn sẽ xúc động đến sững sờ khi thấy ai đó cúi gập người và nói lời cảm ơn - đó là chuyện hiếm thấy trên cả miền Bắc. Nếu đi trên đường mà có điện thoại, người miền Bắc có thể vừa lái xe vừa chửi tục, quát tháo ngay giữa phố để chứng tỏ mình là ai, nhưng người miền Nam thì họ sẽ dừng lại, ghé xe bên lề đường mà nói chuyện. Thanh niên miền Nam nhậu nhẹt về khuya, khi thành phố vắng người, không có cảnh sát giao thông họ vẫn dừng xe khi có đèn đỏ, nhưng miền Bắc thì khác, không cần nhìn ngó trước sau mà sẽ phóng xe đi thẳng.

Từ ngoài xã hội lại nói về câu chuyện học đường nơi mà các em bộc lộ rõ nét nhất cách ứng xử. Sau giờ tan học, nếu đứng ở một cổng trường cấp III tại miền Bắc sẽ thấy rằng, vừa bước ra khỏi cổng trường học sinh nam thì bỏ "sơ vin", châm thuốc và bắt đầu "phun châu nhả ngọc" đến kinh hoàng, học sinh nữ thì sẵn sàng cầm dép lên đánh nhau vì những lý do hết sức vớ vẩn.

Trong môi trường giáo dục, đến trang phục giữa hai miền Nam Bắc cũng khác nhau. Nữ sinh miền Nam có truyền thống mặc áo dài trong mỗi tuần còn miền Bắc thì hầu như không mặc. Thực ra, trong việc bắt học sinh mặc áo dài cũng có cái cớ của những người làm quản lý trong ngành giáo dục. Khi vận trên mình bộ áo dài, một mặt sẽ gây ra sự bất tiện khi hoạt động mạnh, mặt khác các em cũng phải ý thức mình là con gái Việt Nam, cần giữ được nét dịu dàng, dáng yêu đúng lứa tuổi. Vì vậy, nữ sinh cũng ngại ngần mỗi khi có ý định đánh nhau với bạn vì sợ hoen ố lên tà áo trắng, cũng như nhân phẩm của mình. Riêng điều này thôi cũng đã phần nào giảm thiểu được những nóng nảy nhất thời, những hành động bất thường của học sinh.

Cách xưng hô trong nhà trường và ngoài xã hội, học trò miền Nam thường xưng hô "cô", "dì", "chú", "bác" với "con", nghe rất thân mật, tình cảm như người trong gia đình. Vì thế, chả có lý do gì lại đẩy những mâu thuẫn khiến cho tình cảm bị sứt mẻ cả.

Người miền Bắc thường ăn nói rất khéo, trịnh trọng nhưng người miền Nam lại nhã nhặn và hồn hậu hơn. Trong đời sống thường nhật, người miền Nam biểu lộ tình cảm một cách chân tình, không che dấu như người miền Trung hay khách sáo như người miền Bắc. Đến nhà một gia đình miền Nam mà gặp bữa cơm thì sẽ được họ mời một cách cởi mở: "Ăn cơm chưa? Sẵn bữa ăn luôn nghen!" mặc dù đó có thể là mâm cơm tuềnh toàng. Điều đó cũng không làm cho khách phải ngại ngần. Vì thế mối quan hệ được gắn kết bằng sự cởi mở, thoải mái.

Người miền Nam sống đơn giản nên mọi thứ đều thoáng và dễ chịu. Họ không hay để ý nhau, quản lý nhau, săm soi quá sâu vào đời tư của người khác. Họ sẵn sàng bỏ qua mọi hiềm khích để khám phá và thưởng thức cuộc sống, vì thế mọi chuyện luôn tươi mới. Còn đối với người miền Bắc, họ sống phức tạp nên nhiều khi trở thành lối sống giả. Cải cách ruộng đất ở miền Bắc đả dễ " thành công như mong đoi " có thể do nếp suy nghĩ ganh tị này!!! Trong cách giao tiếp, có thể trước mặt người khác họ lễ phép, lịch sự nhưng ngay sau lưng họ lại chửi tục. Họ luôn gồng mình cố gắng trong khi bản thân họ lại muốn nổi loạn. Cách sống đó dễ dẫn tới tình trạng bất cần và stress tâm lý. Cuộc sống bí bách, khí hậu khắc nghiệt cũng góp phần làm cho người miền Bắc tính tình nóng nảy, văn hóa ứng xử kém hơn người miền Nam.


Phải chăng những điều tôi nói trong bài viết này ai cũng biết nhưng mà ít ai nói và ít ai viết ra?

Thứ Năm, 27 tháng 10, 2016

"Thay trời hành đạo" và "Thượng tôn pháp luật"




Quanh chuyện nữ nhân viên hàng không Nguyễn Lê Quỳnh Anh bị hai hành khách hành hung tại sân bay Nội Bài ngay trong ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10/2016.
Ban đầu, ông Trần Hoài Phương - Giám đốc Cảng vụ hàng không miền Bắc cho rằng, "về tình thì có thể hiểu họ bức xúc khi thấy đàn ông đánh phụ nữ nên can thiệp. Nhưng về lý thì thì việc “ra tay” như vậy dễ dẫn tới vụ đánh lộn lớn nếu bạn bè, người quen của hai bên xông vào đánh nhau.

“Nếu xác minh được, chúng tôi cũng xem xét làm rõ luôn hành khách kia về hành vi gây rối trật tự công cộng. Vụ việc để các cấp có thẩm quyền giải quyết  trên cơ sở quy định pháp luật. Nếu ai cũng ra can thiệp theo cách như vậy thì dễ thành đánh lộn đông người náo loạn địa bàn nhạy cảm như sân bay” - ông Phương nói. (chi tiết tại đây:

Nhưng sau đó, nhiều người lại cho rằng đó là "Lục Văn Tiên" thời nay, trong đó có cả những người làm việc trong cơ quan chức năng. Ông Tô Tử Hùng - Phó trưởng phòng An ninh Cục Hàng không VN cho rằng:

Đây là hành động ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật, hành động này đã chấm dứt sự việc gây rối nên không phải là hành vi gây rối.

“Đại biểu QH cũng đã khẳng định, hành động đó đã ngăn chặn được hành vi người đàn ông bắt nạt phụ nữ và hành vi đó không sai. Cá nhân tôi cho rằng, hành động đạp hành khách Trần Dương Tùng là chấp nhận được vì nó đã chấm dứt được hành vi hành hung gây ảnh hưởng đến sức khỏe của nhân viên hàng không Vietnam Airlines”, ông Hùng nêu quan điểm."


Có nhiều cách khác phù hợp hơn để can thiệp vào sự việc nhưng hành khách này đã dùng cách "thay trời hành đạo" để bảo vệ nữ nhân viên hàng không, rồi hành động này lại được những người đại diện cho cơ quan chức năng cổ vũ, đồng tình thì đúng là VN sẽ còn rất xa với với nền văn minh của thế giới.

Luật pháp không cho phép mọi cá nhân hành động theo kiểu “thay trời hành đạo”. Tất cả mọi cá nhân trong xã hội đều phải thượng tôn pháp luật, bởi bản chất của pháp luật là do chính người dân lập ra (thông qua các đại diện của mình) và uỷ quyền cho chính phủ thực hiện. 

Chúng ta cần tham khảo tư tưởng của Fukuzawa Yukichi (nhà khai sáng thời Minh Trị của Nhật Bản) về vấn đề này:

"Quốc dân phải làm tròn bổn phận “một thân hai vai”

Chính phủ là người đại diện cho nhân dân, làm theo ý nguyện của nhân dân. Nhiệm vụ của chính phủ là trấn áp, bắt giữ kẻ có tội, bảo vệ người vô tội. Nếu mọi sự đều diễn ra trôi chảy như vậy thì trị an, trật tự trong nước tốt đẹp biết bao!
Người ta thường gọi kẻ có tội là ác nhận, gọi người vô tội là lương thiện.

Giả thử có kẻ xấu định gây nguy hại, chẳng hạn như chúng định hãm hại bố mẹ, vợ con chúng ta. Về lý mà nói, trong trường hợp này người lương thiện hoàn toàn có quyền tự vệ trước bạo lực của kẻ xấu và còn có quyền “dần cho chúng một trận nhừ tử”. Nhưng không phải lúc nào người lương thiện cũng có thể chống trả nổi lũ người xấu chỉ biết cậy vào sức mình. Mà cứ cho là có thể tự vệ được đi nữa thì cũng phải bỏ ra rất nhiều tiền bạc để lo phòng chống tội phạm.

Nhưng, chẳng phải chúng ta đã thoả thuận với chính phủ rằng người dân uỷ thác cho chính phủ - với tư cách làm người đại diện cho quốc dân – đứng ra bảo vệ trật tự, trị an, đổi lại người dân sẽ đóng thuế đảm bảo cho khoản chi cần thiết của chính phủ, kể cả lương lậu cho các viên chức đó sao? Ngoài ra, chính phủ - với tư cách là tổng đại diện cho người dân – có quyền hành để giải quyết tức thì bất cứ việc gì xảy ra, theo hướng có lợi cho nhân dân.

Quốc dân nghe theo chính phủ không có nghĩa là chúng ta tuân theo pháp luật do chính phủ soạn thảo. Cái mà chúng ta tuân theo chính là luật pháp do chính chúng ta lập ra. Chúng ta phá luật tức là chúng ta tự xé bỏ những quy định do bản thân chúng ta đặt ra. Nếu vi phạm luật, chịu sự trừng phạt thì đó không phải là do chính phủ mà là theo luật do tự chúng ta quy định.

Mỗi người dân chúng ta có hai nhiệm vụ. Thứ nhất là lập ra chính phủ làm đại diện cho chúng ta, để bắt giữ kẻ xấu trong xã hội, bảo vệ dân lành. Thứ hai là thực hiện đúng sự thoả thuận với chính phủ, tuân thủ pháp luật và được chính phủ bảo vệ.

Theo lệ đó, một khi chúng ta đã giao phó quyền lực chính trị cho chính phủ thì nhất thiết không được vi phạm thoả thuận, nhất quyết không được quay lưng lại luật pháp. Bắt giữ lũ sát nhân, xử tử hình chúng là quyền hạn thuộc chính phủ. Quyền xét sử cũng như hoà giải mọi cuộc tranh chấp không phải là việc để quốc dân chúng ta phải nhúng tay vào. Nếu chỉ “vì căm thù” mà tự ý phán xử, bằng cách giết bọn ác nhân, hành động như vậy sẽ là phạm tội. Tội này khó được pháp luật bỏ qua. Không có sai phạm nào lớn như sai phạm này.

Ở quốc gia văn minh phát triển, hành vi “ cá nhân tự coi mình có quyền phán quyết, hành xử” bị luật pháp khép tội rất nặng. Còn tại Nhật Bản, người ta lầm tưởng rằng chính phủ rất có uy. Nhưng thật ra nhiều người chỉ biết sợ chính phủ thôi, chứ hoàn toàn không am hiểu luật, không biết được luật pháp cao quý ra sao.

Bây giờ tôi sẽ giải thích rõ hơn, vì sao bất kỳ cá nhận nào cũng không được “tự ý phán quyết hành xử”, cũng như vì sao luật pháp lại quý giá đến như vậy.

Tôi lấy ví dụ thế này. Có một lũ cướp, xông vào nhà mình, đe doạ gia chủ và định thực hiện hành vi cướp tài sản. Theo luật thì chủ nhân phải báo ngay cho nhà chức trách biết. Nhưng thực tế, vì sự việc xảy ra quá bất ngờ, gia chủ luống cuống và cũng chẳng có thời gian để làm việc đó. Trong lúc bọn cướp đã xông vào nhà và bắt đầu cướp tài sản, gia chủ muốn ngăn lũ cướp lại, nhưng một mình thì rất nguy hiểm nên hợp sức với mọi người trong nhà chống chọi lại lũ cướp. Nhờ thế mà lũ cướp bị tóm và bị giải tới nhà chức trách. Khi bắt được lũ cướp, gia đình dùng gậy gộc, dao kiếm gây thương tích cho lũ cướp, đánh què chân, có trường hợp vì quá tay nên đánh chết bọn cướp.

Tuy vậy, gia chủ và những người trong nhà không bị khép tội “tự coi mình có quyền phán quyết hành xử”. Vì họ rơi vào hoàn cảnh buộc phải dùng phương tiện tự vệ để bảo vệ tính mạng, bảo vệ tài sản của mình.

Trừng phạt tội phạm là quyền hạn của chính phủ, dứt khoát không phải là bổn phận hay trách nhiệm của một cá nhân nào cả. Vì vậy, trường hợp bắt được lũ cướp và cho dù chúng ta chưa bị chúng gây thương tích gì cả, nhưng chỉ vì quá căm tức mà đánh đập hay giết phắt chúng đi là không được. Luật pháp không cho phép, dù chỉ dùng một ngón tay động vào cơ thể chúng. Nhiệm vụ của chúng ta là phải cấp báo ngay cho các nhà đương cục và chờ đợi sự phán xử của chính phủ. Nếu tóm chúng xong, chúng ta hành động theo cảm tính, tức là “tự cho mình có quyền đánh đập, trả thù”, thì hành động như thế tương đương với tội cố ý giết người vô tội, sẽ bị luật pháp khép vào tội giết người.

Luật pháp của quốc gia nghiêm minh có nghĩa là vậy."

Thực tế chúng ta vẫn thường thấy, hành động can thiệp phù hợp thường được sử dụng đó là ra căn ngăn, tách những người trong cuộc ra, hoặc mạnh hơn là ôm hành khách Tùng chẳng hạn cũng là một cách... chứ không phải cứ thấy vấn đề là "động thủ", dù cho không biết sự tình cụ thể diễn ra như thế nào mà chạy đến, và đạp thẳng vào hành khách Tùng như sự việc đã diễn ra.



Trong nguyên lý căn bản của luật pháp cũng có nói về quyền tự vệ chính đáng. Trong tình huống chờ đến sự can thiệp của chính quyền mà có nguy cơ ảnh hưởng đến tính mạng, thì chúng ta có quyền "tự vệ", lúc này pháp luật sẽ bảo vệ người bị hại. Trong tư tưởng của Fukuzawa Yukichi cũng có đề cập đến quyền tự vệ (như đã đề cập ở trên). Tất nhiên, khi cơ quan chức năng hoạt động kém hiệu quả, thì người dân ở đó sẽ thường sử dụng hành động "thay trời hành đạo", nhưng hậu quả xảy ra cũng rât thương tâm, điển hình như những vụ giết chết kẻ trộm chó đã diễn ra ở đất nước này. Hình ảnh để lại cho đất nước này, đó chính là những hình ảnh con người vô cảm trước sự thương tâm của người khác (hình ảnh "mackeno") và cả những hành ảnh đầy bạo lực, thay trời hành đạo như vẫn thường thấy. Cả hai loại hành động này, đều ít xảy ra ở các xã hội văn minh.

Thứ Tư, 21 tháng 9, 2016

Đàm luận về suy nghĩ của nguyên CTN Trương Tấn Sang về tương lai đất nước




Mỗi người một suy nghĩ, cảm nhận khác nhau, người thì cảm thấy rất vui vì một chính trị gia ở vị trí cao như ông Trương Tấn Sang đã thấu hiểu và trăn trở cho đất nước, một số người còn hân hoan cho rằng đất nước rồi sẽ sớm "cất cánh" bởi những vấn đề trục trặc đã được chỉ ra và có hướng giải quyết, nhưng cũng có người cho rằng lời nói này đưa ra khi "mọi sự đã rồi" và không mang lại giá trị gì nhiều...

Nhìn ra thế giới chúng ta thấy rằng có rất nhiều quốc gia có lẽ đã lựa chọn cho mình một con đường không chính xác về cấu trúc nhà nước và nền tảng thể chế chính trị. Khi đó mọi nỗ lực của bộ máy nhà nước và toàn thể công dân của quốc gia đó chỉ là quản lý và hành động nhằm đạt được cái mục tiêu (mà ta đã lựa chọn không đúng). Trong khi nhẽ ra việc cần làm là lựa chọn mục tiêu đúng và thực hiện để đạt mục tiêu đó ("Doing the Right Things is More Important than Doing Things Right"). Và vì vậy, nhiều khi không đạt được kết quả như mụt tiêu đề ra bởi sự mâu thuẫn nội tại của nó, còn nếu có đạt được mục tiêu thì lại là cái mà hầu hết công dân toàn cầu không mong đợi.

Thực tế hiện nay cho thấy, "bệnh" (của đất nước) thì ai cũng đã biết (có lẽ không cần phải nói nhiều), "thuốc" cũng đã được kê, nhưng không chịu uống, bởi uống thì thuốc quá đắng và quá rủi ro cho bệnh nhân hoặc một số bộ phận cụ thể nào đó trên cơ thể con người. Những "bệnh" của một số quốc gia được rất nhiều người đề cập là đặc trưng của một số loại thể chế chính trị. Cứ nhìn ra thế giới và đánh giá chúng ta sẽ thấy điều này. Cần nhìn nhận và hiểu rõ nguyên nhân sâu xa, gốc rễ gây ra những biểu hiện của "bệnh", Nếu không như vậy thì "thuốc" được kê thường chỉ là giải pháp tạm thời nhằm giảm đau và quên đi bệnh thật, mà chưa chữa đúng bản chất của "bệnh".

Khi hiểu được bản chất nền tảng thể chế gây ra những trục trặc cho đất nước, ta cũng có cái nhìn thông cảm hơn cho các vị chính trị gia, bởi chính họ cũng chỉ là một phần rất nhỏ của hệ thống, không thể đủ khả năng để chỉnh sửa hệ thống đó. Đừng trông chờ vào một cá nhân tinh hoa, quan trọng là phải tập hợp sức mạnh của toàn dân tộc, đặc biệt là tầng lớp trung lưu (có tri thức, có thời gian, không bị quá áp lực về cuộc sống vật chất...).

Bản chất của mỗi người đều muốn khẳng định mình qua việc làm các điều tốt, đều yêu nước và muốn đóng góp cho tổ quốc. Quan trọng là thiết kế thể chế, bộ máy nhà nước để cho mỗi con người ấy được đóng góp công sức của mình cho tổ quốc thông qua phát triển chính mình và không làm tổn hại đến các cá nhân khác.

Dù không hân hoan, nhưng dẫu sao vẫn rất vui và hoan nghênh tinh thần của các chính trị gia như ông Sang, bởi dù gì nó cũng phần nào giúp cho nhiều người có thêm động lực để đưa ra quan điểm của mình hơn. Chỉ tiếc một điều rằng nhẽ ra các ông, khi còn tại vị luôn sẵn sàng nói ra những lời nói ấy, khi đó thì sức mạnh của nó sẽ lớn hơn rất nhiều.

Cơ quan lập pháp và chất lượng của văn bản luật

Theo quan điểm của kinh tế gia Hayek: Các cơ quan lập pháp được bầu lên một cách dân chủ đúng nghĩa và khoa học, có thể thực thi ý nguyện của người dân chỉ khi chúng thực hiện chức năng làm luật, tức theo đúng nghĩa nguyên bản của thuật ngữ này, và bổn phận làm luật theo nghĩa rất hẹp và cụ thể của thuật ngữ này. Nghĩa là, ý nguyện của người dân có thể được thực hiện thông qua các hội đồng được bầu lên với điều kiện quyền lực của những hội đồng này bị hạn chế vào việc ban hành các quy tắc phổ quát về hành xử công bằng.

Theo quan điểm của triết gia Montesquieu, bộ máy nhà nước được thiết chế phải đảm bảo sự độc lập, cân bằng, đối trọng và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan. Bởi vì, khi quyền lập pháp và hành pháp nhập lại trong tay một người hay một nhóm người, thì chính người đó hoặc nhóm người đó chỉ đặt ra những luật độc tài để thi hành một cách độc tài; Khi quyền tư pháp được nhập với quyền lập pháp, thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống, quyền tự do của công dân, quan tòa sẽ là người đặt ra luật; Khi quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì quan tòa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc của dân chúng, nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết.

Vây, chúng ta hãy cùng nhìn nhận và đánh giá xem trạng thái của chúng ta hiện nay như thế nào, và tất cả cần làm gì để đảm bảo những nguyên lý khoa học này?

Thứ Hai, 29 tháng 8, 2016

"Trí thức" dưới góc nhìn của Friedrich Hayek và "Chí sĩ" dưới góc nhìn của Fukuzawa Yukichi


1.        Theo quan điểm của Friedrich Hayek
"...Thuật ngữ “trí thức” không truyền đạt ngay tức thì bức tranh trung thực về cái tầng lớp rộng lớn mà chúng ta thường nhắc đến; và việc chúng ta không có được một thuật ngữ tốt hơn để mô tả cái mà chúng ta gọi là nhóm những người môi giới trung gian về tư tưởng là lý do không hề tầm thường khiến cho người ta khiểu không đúng về quyền lực của họ. Ngay cả các cá nhân dùng từ “trí thức” theo nghĩa miệt thị vẫn có thiên hướng loại bỏ nhiều người rõ ràng thực hiện chức năng đặc trưng đó. Chức năng này chẳng phải là chức năng của nhà tư tưởng khai nguồn (original thinkers), cũng không phải của học giả hay chuyên gia về một lĩnh vực tư duy cụ thể nào. Người trí thức điển hình không phải là một trong hai loại đó: anh ta không cần có tri thức đặc biệt về bất cứ cái gì cụ thể, thậm chí chẳng cần quá thông minh, để thực hiện vai trò của mình với tư cách người một giới trong việc truyền bá tư tưởng. Cái làm cho anh đủ tư cách thực hiện chức năng của mình là anh ta có thể dễ dàng nói và viết trên một dải rộng các chủ đề, và có một vị trí hay các thói quen mà qua đó anh ta đón nhận các tư tưởng mới sớm hơn những người anh ta truyền đạt cho.
Tầng lớp này không chỉ bao gồm các nhà báo, nhà giáo, mục sư, giảng viên, những chuyên gia thời sự, nhà bình luận radio, nhà viết tiểu thuyết, người vẽ tranh biếm hoạ, và các nghệ sĩ – tất cả họ có thể là những bậc thầy về kỹ thuật truyền đạt các tư tưởng thường là những người nghiệp dư xét ở mức độ liên quan đến thực chất vấn đề mà họ truyền đạt. Tầng lớp này cũng gồm nhiều nhà chuyên môn và người làm kỹ thuật, chẳng hạn các nhà khoa học và bác sĩ, những người mà thông qua sự tiếp xúc thường xuyên với sách vở trở thành những người truyền tải các tư tưởng mới không thuộc lĩnh vực chuyên môn của họ và những người mà vì tri thức uyên thâm của họ về các chủ đề riêng của họ, được mọi người lắng nghe với sự kính trọng khi họ bàn về hầu như mọi thứ khác..."
2.        Còn đây là quan điểm của Fukuzawa Yukichi về giới “chí sĩ”
“Trào lưu quyền lợi phụ thuộc vào đẳng cấp địa vị, hành xử công việc theo lợi ích riêng, đang lan rộng. Nó cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng mưu mô, dối trá, lừa đảo đầy rẫy trong xã hội hiện nay. Tôi gọi những kẻ hùa theo trào lưu này là “chí sĩ rởm”.
Ví dụ, các thuộc hạ các thuộc hạ của các lãnh chúa dười thời phong kiến là một minh chứng tốt.
Bọn này, kẻ nào người nấy đều tỏ ra trung thành. Ngoài mặt luôn tỏ vẻ biết thân biết phận, lúc nào cũng khúm núm, cúi rạp mình. Trong ngày giỗ chạp, lễ tết, thanh minh… không bao giờ thiếu mặt. Hễ mở miệng là đều có cùng giọng điệu “trung quân báo quốc”, hoặc là “thân này sẵn sàng chết vì chủ”. Người thường dễ bị lừa phỉnh bằng vẻ bề ngoài của chúng. Kỳ thực, bọn chúng đều là một lũ chí sĩ rởm cả.
Được cất nhắc vào chức vụ cao một chút, ngoài lương bổng, phụ cấp quy định ra, không hiểu sao tiền cứ vào như nước. Hoá ra, kẻ trông coi việc xây cất thì luôn thúc giục chủ thầu phải cống lễ. Kẻ trông coi ngân khố thì đòi thị dân phải biếu xén quà cáp mới cho vay tiền. Những chuyện như vậy diễn ra như cơm bữa đến độ trở thành lệ. Ngay cả những võ sĩ vốn được mệnh danh là trung nghĩa luôn trong tư thế chết thay cho chủ thì cũng tìm cách nâng giá trang phục để kiếm chênh lệch. Tất cả cái lũ này phải được gọi là “chí sĩ rởm chính hiệu” mới phải.
Hoạ hoằn lắm mới có một ông quan chính trực. Không một lời đồn nào về ông ta nhận hối lộ cả. Và thế là người đời ra sức khen ngợi. Nhưng ông ấy cũng chỉ là người không ăn cắp tiền của công quỹ mà thôi. Chẳng lẽ cứ phải khen người ta vì ở họ không có lòng dạ tham lam hay sao. Chẳng qua, vì có quá nhiều các chí sĩ rởm nên ông ấy mới nổi đình nổi đám như vậy.
Vì sao lũ chí sĩ rởm lại nhiều đến thế? Nếu tra kỹ ngọn nguồn thì đó là kết quả của ảo tưởng mù quáng luôn coi dân chúng là ngu muội, hiền lành và dễ trị.
Kết cục là tác hại đó đưa tới cách đối xử độc đoán, đẻ ra sự áp chế đối với người dưới. Có thể nói không có gì vô trách nhiệm hơn là cách hành xử dựa vào đẳng cấp, địa vị, tự cho mình là cha mẹ của dân..."


=> Vậy chúng ta có suy nghĩ gì, đánh giá thế nào về hiện trạng hiện nay của Việt Nam, nhóm nào nhiều hơn, trí thức đóng góp được những gì, chí sĩ rởm hoành hành ra sao?

Ba phương pháp tiếp cận công lý

Phải/trái, đúng/sai không phải lúc nào cũng có thể phán xét một cách rõ ràng, phân minh, nó tùy thuộc vào hoàn cảnh, quan điểm, cách nhìn nhận sự việc của mỗi người, cái được hình thành từ quá trình trưởng thành của người đó, thậm chí chính người đó thì lúc này là đúng mà khi nhận thức của anh ta thay đổi thì lại là sai… Bất đồng quan điểm là tất yếu của mọi xã hội, điều quan trọng là các vấn đề xã hội cần phải được nhìn nhận dưới con mắt phản biện, tranh luận dựa trên căn cứ khoa học.

Vậy chúng ta dựa vào đâu để đánh giá một vấn đề?


Chúng ta có thể tham khảo quan điểm của GS ĐH Harvard - Michael J. Sandel đã đề cập trong tác phẩm "Phải Trái Đúng Sai" của mình để đánh giá một vấn đề nào đó. Có ba cơ sở hay phương pháp tiếp cận công lý là: i) Tôn trọng quyền tự do cá nhân (Con người được quyền tự do làm điều mình thích nhưng không được phạm vào tự do của người khác, đồng thời cũng không phải làm điều mình không thích); ii) Tối đa phúc lợi (mang lại lợi ích cho nhiều người nhất hay tổng lợi ích xã hội là dương); và iii) Đạo đức và lối sống tốt đẹp (không được phạm vào nguyên tắc đạo đức của xã hội, đồng thời khuyến khích những hành động cao cả). Hành động nào không đáp ứng được cả ba tiêu chí này thì đều cần phải xem xét kỹ càng, còn nếu nó đáp ứng được cả ba thì nó là đúng đắn, và mọi người hay xã hội cần cổ vũ, khuyến khích, hỗ trợ hay hợp tác để cho hành động đó được thực thi.


Cứ đưa mọi vấn đề ra ánh sáng, để chiếu rọi mọi góc tối của vấn đề, có như vậy mới nâng cao tri thức và đạo đức con người, khi đó công lý mới được thực thi và đó cũng chính là đặc trưng của một xã hội văn minh.

Thứ Tư, 24 tháng 8, 2016

"Vì sao người Việt mãi nghèo?" - PTGĐ FPT - Đỗ Cao Bảo


Mới đây, Phó tổng giám đốc Tập đoàn FPT - Đỗ Cao Bảo đã chỉ ra bốn nguyên nhân làm cho người Việt mãi nghèo. Bốn nguyên nhân ông đưa ra là: "lười biếng - dễ hài lòng; Tư duy nhỏ - quanh quẩn xó nhà; Áp đặt suy nghĩ của mình cho người khác; Nền tảng triết học không chuẩn".
(chi tiết tại đây: http://cafef.vn/sau-bai-viet-vi-sao-nguoi-viet-mai-ngheo-pho-tong-giam-doc-fpt-lai-phan-tich-nhat-dinh-dat-nuoc-ta-se-giau-20160822145039894.chn)
Không phủ định quan điểm của ông Đỗ Cao Bảo là không đúng. Nhìn vào bề nổi thì đúng là ông Bảo nói rất chính xác. Tuy nhiên, đó chỉ là bề nổi biểu hiện bên ngoài của phẩm chất người Việt mà ông đã đề cập. Chẳng phải rất nhiều người vẫn tự hào về phẩm chất người Việt: thông minh, chăm chỉ, thân thiện... đó sao? Như vậy, không lẽ ông Bảo đã nhận xét sai về phẩm chất người Việt?
Không. Ông Bảo đã nhận xét đúng theo dựa trên quan sát của ông, và thực tế có rất nhiều người Việt như ông nói. Nhưng quan điểm đối nghịch với ông cũng đúng. Điều này, có lẽ là do mỗi người đã nhìn vào nhóm người mà họ quan sát được và kết luận cho tất cả người Việt. Trong tổng số gần 100 triệu người Việt, với rất nhiều hiện trạng cuộc sống dưới nhiều hoàn cảnh khác nhau, thì rất nhiều phẩm chất khác nhau đều được thể hiện.
Vậy nguyên nhân thực sự làm cho người Việt mãi nghèo là gì, điều gì làm cho người Việt thể hiện ra bên ngoài những phẩm chất mà ông Bảo đã nhận định? Rộng hơn, liệu những phẩm chất này có phải là đặc trưng của hầu hết các quốc gia chưa phát triển hay "không chịu phát triển" như thuật ngữ của chuyên gia Phạm Chi Lan đã đưa ra?
Để trả lời cho câu hỏi này, có lẽ chúng ta cần tham khảo cách giải thích của GS Kinh tế Trường đại học MIT - Daron Acemoglu - người đã được nhận giải thưởng John Bates Clark cao quý dành cho các nhà kinh tế học dưới 40 tuổi (xem thêm thông tin về ông tại đây http://economics.mit.edu/faculty/acemoglu). Theo cách giải thích của ông và các cộng sự tại tác phẩm “Tại sao các quốc gia thất bại” (Why nations fail), điều làm cho các quốc gia trở nên giàu có hơn so với các quốc gia khác là do quốc gia đó có nền thể chế tốt hơn.
Có quan điểm cho rằng, sự giàu có là do yếu tố văn hóa, con người của mỗi quốc gia (như quan điểm của ông Bảo - FPT đề cập), nhưng thử nhìn lại bán đảo Triều Tiên, hai miền Nam – Bắc trước khi bị chia cắt thì yếu tố con người, văn hóa, trình độ... thực ra là một nên có thể nói là không có sự khác biệt. Nhưng từ khi đất nước bị chia cắt sau Chiến tranh thế giới thứ 2, mỗi miền đi theo con đường riêng của mình, và có đặc trưng thể chế chính trị rất khác nhau, thậm chí là đối lập nhau. Đến nay, sau 7 thập kỷ thì mức độ giàu có của hai quốc gia là không thể so sánh, Nam Triều Tiên (tức Hàn Quốc) trở thành một quốc gia hùng mạnh về kinh tế, trong khi đó Bắc Triều Tiên lại thuộc những nước nghèo nhất thế giới. Về con người thì Hàn Quốc thể hiện mình là trong nhóm những người văn minh nhất thế giới, còn Bắc Triều Tiên có lẽ cũng bao hàm đầy đủ những phẩm chất mà ông Bảo đã nêu ra đối với con người Việt Nam. Và còn rất nhiều bằng chứng khác cũng cho thấy yếu tố văn hóa, con người không phải là yếu tố quyết định sự giàu có của các quốc gia.
Nhóm tác giả cũng chứng minh rằng sự giàu có của mỗi quốc gia không phụ thuộc vào vị trí địa lý (Đông - Tây, Nam - Bắc, xứ nóng - xứ lạnh); cũng không phải do tài nguyên giàu có, thậm chí các quốc gia giàu tài nguyên hơn lại thường nghèo hơn khi phạm vào nguyên lý "Lời nguyền tài nguyên" được đề cập trong kinh tế học; cũng không phải do yếu tố văn minh sẵn có, điển hình như những nền văn minh cổ đại như Hy Lạp, Ai Cập, Trung Hoa... hiện nay lại không phải là những quốc gia giàu có. Còn nhiều cách giải thích khác về sự giàu có của các quốc gia đều được Daron Acemoglu và cộng sự phản biện rất đầy đủ, rõ ràng trong tác phẩm của mình.
Nhóm tác giả khẳng định rằng, nguyên nhân cốt lõi quyết định sự giàu có của mỗi quốc gia là do thể chế của quốc gia đó.
Thể chế được hiểu gồm thể chế chính thức là hệ thống các quy định của pháp luật có tính chất bắt buộc mọi người phải tuân thủ và thể chế phi chính thức là các quan niệm về văn hóa, lối sống... được hình thành qua thời gian và ngầm ràng buộc người dân ở đó phải thực hiện theo.
Quốc gia muốn phát triển thì cần phải có thể chế tốt, ở đó quyền sở hữu của người dân được bảo đảm trước mọi nguy cơ bị "cướp bóc" của mọi thế lực (cướp bóc bao gồm cả nghĩa đen và nghĩa bóng của từ này). Khi đó, người dân luôn yên tâm lao động và sáng tạo để làm giàu cho mỗi cá nhân cũng như cả quốc gia mình.
Thế chế chính trị quyết định thể chế kinh tế, thể chế kinh tế thúc đẩy phát triển thể chế chính trị.
Thể chế chính thức qua thời gian sẽ hình thành, phát triển thể chế phi chính thức và thể chế phi chính thức cũng hỗ trợ, hoàn thiện thể chế chính thức.
Các loại thể chế sẽ hòa quyện vào nhau, hỗ trợ nhau cùng phát triển, và tất nhiên khi thể chế này phát triển chậm hơn thể chế kia, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của các thể chế còn lại, đồng thời cản trở sự phát triển về kinh tế của quốc gia đó.
Tác phẩm của Daron Acemoglu và cộng sự của ông chưa nêu rõ cách xây dựng và cấu trúc nhà nước như thế nào để có một nền thể chế tốt, đặc biệt là thể chế chính trị, nó nằm ngoài phạm vi cuốn sách của ông. Để tìm hiểu lý thuyết về vấn đề này chúng ta cần nghiên cứu kỹ càng các công trình của các triết gia lỗi lạc như Platon, Aristoteles; đến thời kỳ khai sáng có John Lock (1632-1704), C.L. Montesquieu (1689-1775), J.J. Rousseau (1712-1778) và John Stuart Mill (1806-1873)…
Ngày nay, mỗi quốc gia có một nền thể chế khác nhau do quá trình hình thành và lịch sử phát triển khác nhau. Nhưng các quốc gia phát triển thì đều xây dựng được cho mình một nền thể chế tốt và đất nước trở nên giàu có. Trong khi đó, các quốc gia kém phát triển thì liên tục thay đổi nhằm xây dựng được một nền thể chế tốt, tuy nhiên rất nhiều quốc gia có lẽ đã lựa chọn cho mình một con đường không chính xác về cấu trúc nhà nước và nền tảng thể chế chính trị. Trong thống kê học người ta gọi đó là sai lầm loại hai, nghĩa là đã lựa chọn giả thuyết sai nhưng ta lại chứng minh và kết luận nó là đúng – “doing things right”. Lúc này mọi nỗ lực của con người chỉ là quản lý nhằm đạt được cái mục tiêu (mà ta đã lựa chọn không đúng). Trong khi nhẽ ra việc cần làm là lựa chọn mục tiêu đúng và thực hiện để đạt mục tiêu đó – “doing the right things”. Kết quả của việc lựa chọn đúng là đất nước trở nên giàu có, văn minh, người dân ở đó hội tụ đầy đủ những phẩm chất tốt, trong khi các quốc gia kém phát triển thì ngược lại.
Đến đây, có thể thấy rằng quan điểm của ông Bảo – FPT chỉ là những quan sát bề nổi về phẩm chất của con người Việt Nam, và nếu Việt Nam phát triển giàu có thì những phẩm chất trên sẽ đi theo hướng ngược lại lời nhận xét của ông. Tất nhiên, để Việt Nam phát triển giàu có thì những phẩm chất tốt ở mỗi con người Việt Nam rất cần được phát huy và cùng góp chung xây dựng cho đất nước một nền thể chế tốt, từ đó các phẩm chất tốt của con người Việt Nam qua thời gian sẽ dần hình thành, xã hội Việt Nam sẽ là xã hội của những con người văn minh.