Tổng số lượt xem trang

Thứ Sáu, 12 tháng 5, 2017

Quanh việc giải cứu con lợn


Câu chuyện xảy ra với chị X hành nghề bán tôm, cá; đồng thời nuôi lợn mà không tính toán về giá cả thị trường ở một vùng quê thuộc Hải Phòng cũng có rất nhiều điều cần phải bàn luận.
Tất nhiên, nói là tính toán vậy thôi, chứ chúng ta không thể đòi hỏi người nông dân có thể dự đoán xa về giá cả đầu ra cho nông sản  của mình, mà họ chỉ nuôi, trồng theo trào lưu.
Gần đây, giá thịt lợn trên thị trường giảm quá nhiều, nguy cơ thua lỗ nặng trước mắt, tương lai gia đình thật bấp bênh, hoàn cảnh nợ nần thê thảm cứ đeo bám cuộc đời những con người khốn khổ.
Chị X quyết định tự mình thịt dần số lợn mà mình nuôi, rồi mang ra chợ bán thay vì bán lỗ cho các thương lái. Cách làm của chị giống với cách làm từ thời còn đúng nghĩa chợ quê ngày xưa, có gì thì cứ mang ra chợ bán, như mớ rau, mớ cỏ. Nhưng rất tiếc, thời nay đã khác, nó đã gọi là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa rồi. Muốn bán gì thì ít nhất cũng phải qua các cơ quan quản lý thị trường chính thức, chứ chưa nói đến các nhóm quản lý thị trường "không chính thức" khác.

Vì mục tiêu bán nhanh và muốn thu hồi được đồng vốn nào hay đồng đó. Chị quyết định hạ giá bán thấp hơn hẳn so với với những người đã kinh doanh trong chợ này nhiều năm nay. Khách hàng ùn ùn kéo đến mua hàng của chị vì giá rẻ, mà chẳng thèm quan tâm chất lượng hàng có được ai đảm bảo hay không, uy tín người bán thế nào, giá rẻ là trên hết.

Vì lấy mất khách hàng của những người bán hàng lâu năm ở chợ, chị đã tạo ra bao nỗi bức xúc, thù hằn trong họ. Chẳng phải đợi cơ quan nào xử lý, họ đã quyết định tự thực thi quyền lực của mình, "thay trời hành đạo" - theo chiều hướng bất lương, thực hiện hành vi côn đồ - lấy dầu luyn, chất thải đổ vào thịt của chị X, bởi xưa nay họ vẫn quen hành động kiểu này mà chẳng cần phải chờ ai đến phân xử. Sự tương phản về cảm xúc lên cực điểm giữa sự hả hê của của kẻ trả thù so với ánh mắt hoang mang, thất thần và vô vọng của chị X dành cho đống thịt của mình, hay xa hơn là chính cuộc đời mình.



Câu chuyện này tạo ra khá nhiều quan điểm khác nhau, việc phán xét ai sai ai đúng nhìn thoáng quan tưởng thật đơn giản, nhưng nếu đánh giá kỹ hơn thì cũng không hề đơn giản chút nào.

Hình ảnh ban đầu gợi mở, chắc chắn chúng ta đều bênh vực kẻ yếu đuối, khốn khổ và lên án kẻ bất thủ ác. Kẻ sử dụng côn đồ để trừng phạt chị bán thịt bằng cách đổ dầu luyn vào thịt của người khác vừa bất lương vừa không tôn trọng pháp luật. Ngược lại, chị bán thịt tham gia vào thị trường mà không tìm hiểu luật chơi, quy định của thị trường nơi đó cũng không thể gọi là đúng. Nếu chợ này đủ minh bạch đúng nghĩa thị trường thì chị bán thịt vào chợ bán phá giá là cạnh tranh không lành mạnh. Người tiêu dùng thì được lợi đôi đường, họ vừa được mua thịt với giá rẻ, lại vừa được tiếng có lòng tốt vì đã giúp đỡ mua hàng ủng hộ người khốn khổ. Và tất nhiên, cộng đồng (đám đông) khi nhìn vào hình ảnh thảm thương của người bị hại sẽ dễ bị lôi cuốn và không đủ tỉnh táo để phán xét một cách công minh, họ ngay lập tức lên án kẻ bất lương, bênh vực người khốn khổ. Bởi bản chất con người luôn ủng hộ cái thiện và ghét bỏ cái ác (dù là kẻ bất lương nhất cũng có suy nghĩ như vậy).

Tuy nhiên, trong kinh tế, cạnh tranh đơn thuần bằng giá là thúc đẩy quá trình chạy đua xuống đáy, cuộc chơi sẽ không thể kéo dài, và tất cả đều chết. Cạnh tranh phải bằng chất lượng, bằng sự khác biệt của sản phẩm, bằng giá trị thỏa dụng (độ thỏa mãn) mà người bán mang lại cho người mua.

Vấn đề quan trọng ở đây cẩn phải được xem xét kỹ lưỡng mà thường chúng ta hay bỏ quên đó là vai trò của cơ quan quản lý, nhà tạo lập thị trường, cơ quan quản lý thị trường… Với thực trạng thông tin kém minh bạch, tham nhũng có ở mọi nơi, mọi ngóc ngách của cuộc sống thì thật khó để nói rằng thị trường ở đây đúng nghĩa là thị trường được. Vai trò của cơ quan quản lý từ khâu quy hoạch quy mô nuôi trồng, định hướng thị trường, rồi tạo lập thị trường, và phán xử khi tranh chấp xảy ra... đã không được như kỳ vọng. Điều này dẫn đến hành vi của các bên thường không tuân thủ quy luật khi tham gia vào thị trường. Nếu cơ quan quản lý đảm bảo đúng chức năng, nhiệm vụ, vai trò của mình thì chắc chắn những hậu quả đáng tiếc này sẽ không xảy ra.

Lại nhớ đến triết gia vĩ đại thời khai sáng Jean-Jacques Rousseau (1712-1778) đã viết: “Hạnh phúc thay những dân tộc ở đó người ta có thể tốt mà không cần cố gắng, công minh chính trực mà không cần đức tính (nghĩa là: làm người tốt một cách tự nhiên, từ trong bản chất mỗi con người, không cần phải cố gắng, nỗ lực để làm người tốt). Nếu có một quốc gia khốn khổ nào trên thế gian, ở đó mỗi kẻ không thể sống được nếu không làm điều ác, và ở đó các công dân đều gian manh vì bất đắc dĩ, thì cần treo cổ không phải kẻ bất lương, mà phải là kẻ buộc hắn phải trở thành kẻ bất lương”.

Thứ Năm, 11 tháng 5, 2017

Giáo dục trẻ em - vấn đề của giọng nói, lời nói và hậu quả của việc phải học thuộc lòng

Tại tác phẩm "Émile hay là về giáo dục"
Cuốn sách kinh điển về giáo dục đã ra đời trên 250 năm của Triết gia - Jean Jacques Rousseau, người được coi là "Người Thầy của nhân loại"

Phần nội dung bàn về cách dạy trẻ học nói.

"...Tôi muốn những phát âm đầu tiên người ta cho trẻ nghe phải thưa thớt, dễ dàng, rành rõ, lặp lại nhiều lần, và những từ ngữ được các phát âm này diễn tả chỉ liên quan đến các vẫn hữu hình mà trước hết người ta có thể chỉ ra cho trẻ. Cái thói dễ dàng và tai hại nói những điều mà ta chẳng hiểu gì bắt đầu sớm hơn ta nghĩ. Học trò nghe ở lớp những lời lẽ dài dòng của giáo viên, cũng như khi còn quấn tã nó đã nghe những điều líu lo tầm phào của vú nuôi. Tôi thấy nuôi dạy trẻ để nó không hiểu gì về những điều ấy có lẽ chính là dạy dỗ nó một cách rất hữu ích.
Các vị hãy luôn luôn nói năng chính xác trước mặt trẻ, làm sao cho chúng không thấy thích thú với ai bằng các vị, và hãy tin chắc rằng ngôn ngữ của chúng sẽ dần dà tự thanh lọc theo ngôn ngữ của các vị mà các vị chẳng bao giờ phải trách mắng chúng.
Tôi đã sống nhiều với dân quê, và chưa từng nghe thấy một người thôn quê nào nói chớt, đàn ông, đàn bà, con gái, con trai đều không. Vì sao như vậy? Khí quản của nông dân được cấu tạo khác khí quản của chúng ta hay sao? Không, nhưng chúng được luyện tập khác hẳn. Đối diện cửa sổ phòng tôi là một gò đất nơi trẻ em quanh đấy thường tụ tập để chơi đùa. Dù chúng ở khá xa tôi, song tôi hoàn toàn nghe rõ mọi điều chúng nói, và tôi thường rút từ đó ra nhiều kỷ niệm hay để viết cuốn sách này. Ngày nào tai tôi cũng khiến tôi bị lầm về độ tuổi của chúng; tôi nghe thấy những giọng nói của trẻ mười tuổi; tôi nhìn, tôi thấy vóc dáng và dung mạo của những trẻ lên ba lên bốn. Không chỉ riêng mình tôi có trải nghiệm này; những người thành thị đến thăm tôi, và được tôi hỏi ý kiến về việc đó, tất thảy đều lầm lẫn y như tôi.

Sở dĩ có sự lầm lẫn trên là do trẻ em thành phố, cho đến năm hay sáu tuổi, được nuôi nấng trong phòng và nương náu dưới bóng cô dạy trẻ, chỉ cần lầm bầm là được mọi người nghe thấy: chúng vừa mấp máy môi là được mọi người lắng nghe; mọi người dạy chúng những từ mà chúng nhắc lại không đúng, song, vì cứ chú ý mãi, nên vẫn những người không ngừng ở quanh chúng đoán ra được những gì chúng muốn nói hơn là những gì chúng đã nói.
Ở thôn quê, chuyện hoàn toàn khác hẳn. Một phụ nữ nông thôn không phải lúc nào cũng quanh quẩn bên con mình; đứa bé buộc phải nói rất rõ và rất to điều nó cần làm cho mẹ nó nghe thấy. Ngoài đồng ruộng, những đứa trẻ ở rải rác, xa mẹ, cha, và các trẻ khác, chúng tập nói để mọi người ở xa nghe được, và tập ước lượng sức mạnh của giọng nói dựa theo khoảng cách ngăn chúng với những người mà chúng muốn được họ nghe thấy. Người ta thực sự học phát âm như vậy đó, chứ không phải bằng cách ấp úng vài nguyên âm bên tai một cô dạy trẻ ân cần chú ý. Bởi thế, khi ta hỏi han đứa trẻ con người dân quê, sự xấu hổ có thể cản trở nó trả lời; những những gì nó nói, thì nó nói lên rõ rành; trong lúc đó người hầu gái phải làm thông ngôn cho đứa trẻ thành thị; nếu không thì mọi người chẳng hiểu tí gì về những điều nó lầm bầm giữa kẽ răng.
Khi lớn lên, trẻ em trai sẽ phải sửa khuyết điểm này ở trường học, còn trẻ em gái sửa chữa tại tu viện; quả thực, nhìn chung các trẻ này nói năng rõ rành hơn những trẻ vẫn cứ được nuôi dạy tại gia đình. Nhưng điều khiến chúng không bao giờ đạt được cách phát âm rành rọt như cách phát âm của dân quê, đó là sự cần thiết phải học thuộc lòng rất nhiều điều (ý tác giả là bị buộc phải học thuộc lòng nhiều điều), và phải đọc to lên những gì đã học; vì, trong khi học, chúng quen nói lúng búng, quen phát âm cẩu thả và sai; khi đọc thuộc lòng, thì còn tệ hơn nữa; chúng cố gắng tìm từ ngữ, chúng rề rà và kéo dài các âm tiết; khi trí nhớ chao đảo, ngôn từ không thể không ấp úng theo. Các tật về phát âm bị tiêm nhiễm hoặc bị duy trì vậy đó…
Tôi thừa nhận rằng dân chúng và người thôn quê thường rơi vào một cực đoan khác, rằng hầu như bao giờ họ cũng nói to hơn mức cần thiết, và khi phát âm quá chính xác, họ có cách nói mạnh và thô, có giọng điệu thái quá, họ chọn từ ngữ không đúng…
Nhưng, thứ nhất, tôi thấy cực đoan này ít xấu hơn cực đoan kia rất nhiều, bởi quy tắc đầu tiên của diễn ngôn là làm cho mọi người nghe được mình, thì lỗi lớn nhất ta có thể mắc phải là nói mà người ta không nghe được…"

=> Cần khắc phục những vấn đề về giọng nói, lời nói và những hậu quả do phải học thuộc lòng.

Chủ Nhật, 11 tháng 12, 2016

Tài năng, đúng quy trình nhưng liệu đã đủ


Những ngày qua, sau khi báo chí đưa thông tin về chuyện bổ nhiệm ông Vụ phó 26 Tuổi – VMH ở BCĐ TNB, công luận lại có dịp nổi sóng. Có rất nhiều quan điểm trái ngược nhau quanh chủ đề này. Tuy nhiên, để hiểu được tại sao lại có hiện tượng như vậy, chúng ta cần có cái nhìn nhiều chiều, nhiều phía, và phải có những luận chứng chặt chẽ để bảo vệ được quan điểm của mình. Như vậy sẽ mang lại lợi ích nhiều hơn so với việc chỉ thuần túy biểu quyết đúng hay sai.


Trước hết, phải khẳng định rằng, không thể phủ nhận tài năng của chàng trai trong chuyện này, bảng thành tích về học tập như vậy là anh ta đã chứng minh khả năng của mình về học tập rồi. Dĩ nhiên, gia đình nào có những người con như vậy chắc chắn là có quyền tự hào về điều đó. Nhưng sự việc bổ nhiệm này chắc chắn sẽ làm cho mỗi người lại có ý kiến khác nhau.
Thứ nhất, phản biện quan điểm của một số người cho rằng: những người lên tiếng phản đối việc bổ nhiệm này là có vẻ “GATO” với người tài hơn mình.
Trong số rất nhiều người phản đối thì không thiếu những người đang ghen tị đúng như quan điểm này nêu ra. Ghen tị là vì sao?
Fukuzawa Yukichi (nhà tư tưởng khai nguồn thời Minh Trị Nhật Bản) nói rằng, bản tính ghen tị là đặc trưng của những người tham lam, và có thể nói tham lam sẽ là nguồn gốc của mọi tội lỗi, thói hư, tật xấu. Tham lam, ghen tị sẽ thường xuất hiện ở các quốc gia kém tự do, trong đó, tự do mang nghĩa hai chiều là: Tự do làm những điều mình thích mà không gây tổn hại đến người khác và không phải làm những điều mình không thích.
(Nếu muốn biết thêm thông tin về quan điểm của Fukuzawa Yukichi về tham lam, mời bạn đọc vui lòng tham khảo tại đây:
https://hungphamfb.blogspot.com/2016/12/tham-lam-va-ngheo-oi-duoi-goc-nhin-cua.html)
Và muốn có cơ sở để đánh giá phải-trái, đúng-sai, và quyền tự do, vui lòng tham khảo quan điểm của GS ĐH Harvard – Michael Sander tại đây:
Nhưng trong số những người không đồng tình thì có rất nhiều người đang cố gắng đưa mọi thứ ra để bàn luận, phải-trái, đúng-sai, khi đó ánh sáng sẽ chiếu rọi mọi góc tối của vấn đề, và công lý được thực thi.
Tình trạng rất nhiều người cùng nhảy vào để phản đối việc bổ nhiệm này. Đó là vấn đề “tâm lý đám đông”, tất nhiên, theo nghĩa hai hướng khác nhau, nhiều vấn đề tâm lý đám đông là tốt và nhiều vấn đề tâm lý đám đông là xấu. Và xấu hay tốt, thì cứ để cho thực tế sẽ chứng minh, quan trọng là phải có cơ chế cho công luận được nói ra, và chứng minh những quan điểm của họ.
Có rất nhiều người, nhẽ ra không quan tâm chủ đề này, bởi họ đã thấy nó xuất hiện quá nhiều trong đời sống hàng ngày, không còn gì mới lạ, và quan tâm cũng không giải quyết được gì. Nhiều người trong số đó đã ngầm định rằng lẽ đời nó thế, không phải bàn luận thêm, như ông bà ta đã dạy “Con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa”, họ đành chấp nhận cuộc sống như hiện tại, họ đang vật vờ, lững lờ trôi theo dòng chảy của cuộc sống, hay có người lý trí hơn thì vì lợi ích cá nhân mà quên đi lợi ích cộng đồng nên đã trở thành “ngậm miệng ăn tiền”, “im lặng là vàng”.
Fukuzawa Yukichi cho rằng khi công dân của một quốc gia hoàn toàn thờ ơ với các vấn đề lợi ích quốc gia, dân tộc, bàng quan với những vấn đề chính trị của tổ quốc, thì đó là dấu hiệu cảnh báo cho sự suy vong của quốc gia, dân tộc đó. Và tất cả chúng ta, những công dân yêu nước, không ai mong muốn đến viễn cảnh này.
Vì vậy, khi công luận, dân chúng đổ xô vào bàn luận thì rất nhiều cá nhân của đám đông, ban đầu cũng theo chủ nghĩa “Mackeno”, nhưng sau đó đã không thể đứng ngoài mãi được. Bởi bản chất tâm hồn của đám đông như Gustave Le Bon miêu tả trong tác phẩm “Tâm lý học đám đông” thì đám đông rất dễ bị lôi kéo, bị dụ dỗ, dù là con người đầy tri thức hay những người lao động chân tay, khi đã tham gia vào đám đông thì hầu như họ có cách hành xử cơ bản là giống nhau. Bởi khi đó, họ hành động theo tình cảm, theo trực giác chứ không phải theo lý trí, lý tính của bản chất sự việc. Do vậy, số lượng người tham gia phản đối lại càng nhiều, bởi khi lòng tin của họ đã suy giảm nghiêm trọng, thì không cần lý trí phán xét đúng – sai nữa, cứ gặp vấn đề là họ sẽ nghĩ theo hướng không tốt đó thôi. Đó là một phần rất con người khi tham gia vào đám đông.
Thứ hai, xin quay lại chủ đề về ngoại ngữ và khả năng chuyên môn.
Không phủ nhận vai trò cần thiết của ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh trong thời buổi hiện nay. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng, ở các nước văn minh hơn chúng ta trong khu vực chứ chưa dám nói đến các nước văn minh hàng đầu của thế giới, thì ngoại ngữ chỉ là công cụ, là phương tiện giúp ta làm việc, còn khả năng chuyên môn, khả năng sáng tạo, khả năng tự học tập, tự rèn luyện để hoàn thiện bản thân… mới là yếu tố quan trọng mang tính quyết định sự thành công trong công việc cũng như trong cuộc sống của một cá nhân con người.
Liên quan đến khả năng chuyên môn để xem xét về việc bổ nhiệm có hợp lý hay không trong trường hợp này, có lẽ phải nói rõ hơn là khả năng chuyên môn khi anh đứng ở cương vị quản lý, nhất là ở cơ quan quản lý nhà nước, thường mang màu sắc chính trị rất lớn, thì anh phải có phẩm chất của một chính trị gia, phẩm chất của nhà quản lý, còn khả năng chuyên môn sâu của công việc hàng ngày, có lẽ sẽ là không quá cần thiết, nhất là khi người đó có khả năng tự học, tự rèn luyện để hoàn thiện bản thân như đã nói ở trên. Bởi với những phẩm chất trên thì chuyên môn hàng ngày đã trở nên rất dễ dàng cho người được chọn. Vì vậy, nếu anh giỏi ngoại ngữ thì anh có thể làm thông dịch. Và cho dù, anh vừa giỏi ngoại ngữ vừa có bằng cấp về quản lý, được đào tạo bài bản, thì muốn là người được chọn vào vị trí cao vời vợi thì anh vẫn phải chứng minh khả năng của mình qua thực tế công việc, chứ không phải cứ có đầy đủ bằng cấp một cách bài bản là sẽ được đặt vào vị trí cao vời vợi như thế. Bởi nhiều khi anh có ngoại ngữ giỏi và bằng cấp bài bản, nhưng phẩm chất con người anh lại chỉ phù hợp với việc nghiên cứu mà không phù hợp với việc quản lý. Và để chứng minh khả năng của mình, cho mọi người thấy anh là người phù hợp với việc quản lý cấp cao đó, thì buộc anh phải có thời gian, phải có kinh nghiệm, trải nghiệm cuộc sống trong công việc, chứ không phải anh suốt ngày lơ lửng bay cao trên bầu trời, rồi bỗng nhiên đậu xuống vị trí đầy mơ ước như vậy. Xin nhắc lại quan trọng là tuổi nghề chứ không phải tuổi đời, tất nhiên có cả hai thì lại càng tốt.
Chúng ta đừng nhìn vào thực tế thấy có một số người còn rất trẻ mà đã xây dựng được sự nghiệp vô cùng lớn để áp dụng vào việc này, và nói là “tài không đợi tuổi”. Xin trả lời rằng, chúng ta cần tham khảo cách giải thích của Michael Gladwell tại tác phẩm “Những kẻ xuất chúng” về “Quy tắc 10.000 giờ”. Theo đó, một người khi tích lũy đủ 10.000 giờ với một công việc chuyên môn sâu nào đó, thì anh ta đã trở thành chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực chuyên môn đó, và nhất định anh ta sẽ là người thành công.  Những người đã thành công ở độ tuổi còn trẻ như vậy nghĩa là họ đã tích lũy đủ thời lượng cho chuyên môn của họ.
Nhưng thực tế không phải ai cũng có khả năng tích lũy được thời lượng như vậy với một công việc chuyên môn, đặc biệt là tại các quốc gia có nền tự do, dân chủ thấp thì lại vô cùng khó.
Bởi vì, trước hết anh phải có sở thích, đam mê, và phải có sự may mắn là được mọi người xung quanh gồm cả gia đình và xã hội luôn ủng hộ, cổ vũ để anh duy trì động lực tiếp tục rèn luyện trong chuyên môn đó, và may mắn là chuyên môn của anh được xã hội cần đến đúng thời điểm chín muồi, ta gọi đó là thời cơ. Trong khi tại các quốc gia này, trước những áp lực bộn bề của cuộc sống, cộng thêm yêu cầu người ở vị trí cao phải biết đủ mọi điều cứ như một ông thánh, muốn biết nhiều điều nghĩa là người đa năng nên người ta không thể tập trung, họ không thể sống với một chuyên môn, họ là “thánh phán” cho mọi thứ… nên vô cùng khó để tích lũy đủ 10.000 giờ. Ví dụ như một người làm trong lĩnh vực tài chính (như tác giả bài viết) nhẽ ra cứ tập trung hoàn toàn đam mê vào tài chính, nhưng cuộc sống ngoài xã hội này có quá nhiều thứ mà nếu chỉ tìm hiểu về lĩnh vực tài chính sẽ không thể giải thích nổi, vì thế người ta phải tìm về triết học, bởi nó giúp con người hiểu được xã hội, hiểu được nhiều hơn về con người, giúp người ta biết dựa vào cơ sở nào để giải thích được các hiện tượng của cuộc sống, và tất nhiên nó cũng bổ trợ để hiểu nhiều hơn thị trường tài chính của ta, vì sao nó đang diễn ra (không tốt) như hiện tại. Vì thế mà cũng không thể tập trung toàn bộ thời gian cho chuyên môn của mình.
Tiếp tục về góc độ chuyên môn và bằng cấp bài bản, trong xã hội chúng ta, thì số lượng người có được những bằng cấp bài bản hơn thế rất nhiều cũng không phải là thiếu. Nếu nói chỉ cần ngoại ngữ và bằng cấp bài bản là sẽ làm tốt và đưa đất nước phát triển tốt, thì chỉ cần lôi hết các anh tốt nghiệp chính sách công, luật, kinh tế… của Harvard, Princeton, MIT… về cho các anh ấy lãnh đạo là xong. Hay biện pháp đơn giản hơn nữa, không khiến cho những người đang tại vị phải lo nhường chỗ cho các tài năng trẻ là gửi hết các đồng chí đang làm lãnh đạo đến các trường nổi tiếng hàng đầu thế giới để học, đào tạo rồi về quản lý đất nước là xong. Chắc chắn chi phí bỏ ra cho các đồng chí đó đi học không thể so sánh được với lợi ích mà những người đó mang lại, nếu chúng ta đồng ý quan điểm cho rằng đất nước phát triển được chỉ do trình độ dân trí. Khai dân trí là quan trọng, nhưng khai ở đâu, khai như thế nào và khai cái gì thì cần phải được làm rõ. Ngoài ra, dân trí không phải là yếu tố duy nhất quyết định vận mệnh đất nước (xin vui lòng tham khảo bài viết “Vì sao người Việt mãi nghèo” tại đây:
https://hungphamfb.blogspot.com/2016/08/vi-sao-nguoi-viet-mai-ngheo-ptg-fpt-o.html).
Rủi ro có thể xảy ra là, khi những người có đủ tri thức, có tài năng được trao quyền lực mà ta không có cơ chế kiểm soát quyền lực một cách khoa học, thì hậu quả còn tệ hại hơn so với trước khi họ được trao quyền. Bởi lúc đó nhà nước là của họ, nhóm của họ hay nhà nước quý tộc, nhà nước tư bản thân hữu, hay tư bản nhóm chứ không phải là nhà nước của dân, do dân và vì dân (cụ thể hơn là nhà nước dân chủ) nữa rồi.
Trao quyền như vậy là không tốt, bởi vì xuất phát từ bản chất tự nhiên của quyền lực, quyền lực luôn có xu hướng tự mở rộng, tự tăng cường vai trò của mình, ở đâu có quyền lực là có khả năng xuất hiện xu thế lạm quyền và chuyên quyền, cho dù quyền lực ấy thuộc về ai, chủ thể nào, hay nhóm người nào. Như nhà sử học, chính trị học Lord Acton từng nói: "Quyền lực làm con người ta tha hóa, quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến tha hóa tuyệt đối". Vì vậy, để ngăn ngừa các hành vi lạm quyền của các chủ thể nắm giữ quyền lực, thì phải cấu trúc hệ thống một cách khoa học nhằm giới hạn quyền lực (nguyên lý cân bằng và kiểm soát – Checks and Balances), đảm bảo mang lại lợi ích chung cho toàn bộ các chủ thể trong hệ thống, một tổ chức hay một quốc gia. (Để hiểu hơn về kiểm soát quyền lực, độc giả có thể tham khảo bài viết “Cái lồng quyền lực” tại đây:
Thứ ba, có quan điểm đưa ra tình huống phải chọn một trong hai là: i) chọn những người có ngoại ngữ, có bằng cấp bài bản và ii) những người không có ngoại ngữ, trình độ chuyên môn tàng tàng, có kinh nghiệm lâu năm vào làm vị trí lãnh đạo.
Cách đặt vấn đề kiểu này là không hợp lý, và mang tính áp đặt, giống như kiểu đặt câu hỏi “chọn sắt thép hay chọn cá tôm” vậy. Tương tự như thế, vậy xin hỏi lại rằng chúng ta sẽ lựa chọn thế nào giữa một bên là tất cả mọi người đều im lặng, không thèm quan tâm và một bên là mọi người khi thấy sự việc bất thường thì cùng nhau tranh luận, tranh đấu cho rõ sự tình. Tôi dám chắc là hầu hết chúng ta sẽ chọn lựa chọn thứ hai.
Cách đặt câu hỏi như vậy là tù túng, không mở ra tương lai, bởi tại sao ta không đưa ra một lựa chọn tối ưu hơn, ví dụ như một quy trình tuyển dụng minh bạch, độc lập để chọn được người tài, khi đó chắc không mấy ai vào phản đối cả.
Có người cho rằng việc tuyển người ở cơ quan này, họ đã chủ động đi tìm một nhân tài về đặt vào vị trí quan trọng, đúng nghĩa là săn đầu người. Chuyện này có lẽ là hiếm thấy ở các cơ quan công quyền. Có lẽ họ đã cố tô điểm những sắc hồng cho cuộc đời thêm phần tươi sáng, họ bỏ qua thực tại, cố tình ru ngủ bản thân.
Giữa thời buổi đầy nhiễu nhương, trắng – đen, sáng – tối lẫn lộn, một gam màu xám bao trùm cả bầu trời như vậy, thì thường người ta chỉ nghĩ theo hướng tiêu cực là một tư duy hợp lý. Vì vậy, hãy để người dân được quyền nghi ngờ, được tham gia, được quyền đặt câu hỏi và được quyền yêu cầu cơ quan nhà nước do người dân ủy quyền tìm ra bản chất sự việc.
Thứ tư, đã từ lâu rồi, từ thời ông cha ta, người dân chúng ta vẫn thầm ngưỡng mộ phương Tây, thấy phương Tây là chúng ta có thể có tiền bạc, thấy phương Tây là chúng ta thán phục, thấy họ là ta thấy có cơ hội, nên rất cần phải giao tiếp với họ, cần được trò chuyện cùng họ. Nhưng cứ mỗi khi gặp họ là họng ta cứng hết lại, cùng với vị thế yếu hơn họ, nên chúng ta càng tự ti. Do đó, biết bao điều hay, ý đẹp trong lúc minh mẫn ta nghĩ ra được thì lúc này đều tan biến, và kết quả là mục tiêu công việc không đạt được. Vì vậy chúng ta khao khát ngoại ngữ, và thầm thán phục những người giỏi ngoại ngữ. Nhưng tiếc thay, nhiệm vụ đào tạo ngoại ngữ lại không được cơ quan chuyên trách hoàn thành, mọi tính toán, chiến lược phát triển đều bị bóp méo trước “sức nặng của đồng tiền”.
Kết lại, chúng ta biết ngoại ngữ là quan trọng, nhưng không phải là tất cả; bằng cấp bài bản là quan trọng nhưng cũng không phải là tất cả. Vì vậy, cái điều bất thường xảy ra thì người dân có quyền nghi ngờ, quyền yêu cầu được giải trình.
Và giải pháp để tránh được những phản ứng tiêu cực của người dân, thì chúng ta hãy cứ tuân thủ bốn nguyên tắc của quản trị, những nguyên tắc mà chúng ta có thể áp dụng ở mọi nơi, mọi đám đông, từ góc độ gia đình đến tổ chức làm việc, hay một quốc gia đó là: i) Minh bạch, ii) Trách nhiệm giải trình, iii) Khả năng dự đoán được (từ trước, trong và sau của quá trình), và iv) Sự tham gia (của mọi chủ thể liên quan vào toàn bộ quá trình).
Hết,